Thứ Năm, 2 tháng 8, 2007

Tưởng Nhớ Anh Hùng Đông Tiến

Đỗ Hoàng Điềm

Dẫu cường nhược có lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.

Qua hai câu trên trong bản Bình Ngô Đại Cáo, vị anh hùng Nguyễn Trãi đã khẳng định rằng dân tộc Việt Nam không hèn yếu. Dù có lúc tang thương tưởng chừng bị tiêu diệt, dù có lúc cùng quẫn hầu như hết hy vọng, nhưng đời nào cũng vẫn có những người hào kiệt áo vải đứng lên huy động toàn dân đấu tranh cho tổ quốc.

Thời điểm sau ngày 30-04-1975 cũng thế. Sau hơn 20 năm chiến đấu để bảo vệ tự do, miền nam Việt Nam đã bị đẩy rơi vào sự kềm kẹp của chế độ độc tài cộng sản. Từ cơn chấn động đó, hàng triệu người dân Việt, hàng trăm ngàn gia đình đã hứng chịu biết bao đổ vỡ, mất mát bi thảm. Ngay cả ở miền Bắc, khi tiếp cận với thực trạng tại miền Nam, nhiều người đã tỉnh mộng và hiểu ra rằng mình đã bị đảng cộng sản lừa gạt từ bao năm qua. Cùng lúc, hàng triệu người đã phải bỏ nước ra đi trong cảnh tuyệt vọng cùng cực. Trong lịch sử cận đại của nước nhà, có lẽ chưa bao giờ dân tộc Việt Nam lại lâm vào cảnh tang thương như vậy không phải do ngoại xâm, mà chính từ tham vọng quyền lực và quyền lợi của thành phần lãnh đạo đảng cộng sản.

Nhưng dù trong tình trạng tan nát và tuyệt vọng như vậy, dù tâm lý của đại đa số quần chúng lúc đó hoang mang và chán chường, đã có những con người can đảm đứng lên tiếp tục đấu tranh cho tự do và dân chủ. Ngay tại quê hương, rất nhiều người đã không bỏ cuộc, tiếp tục chiến đấu chống lại sự thống trị của đảng cộng sản. Tại hải ngoại, khi vừa đặt chân đến bến tự do, rất nhiều người đã lập tức bắt tay vào việc gầy dựng lực lượng để tìm cách giải thoát dân tộc và xây dựng dân chủ.

Trong khung cảnh đó, ngay từ năm 1976, tướng Hoàng Cơ Minh đã cùng với một số chiến hữu nỗ lực tìm kiếm những người đồng chí hướng để mưu đồ việc giải phóng dân tộc. Kết quả là Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam ra đời vào năm 1980. Ông được đề cử vào trách vụ Chủ tịch Mặt Trận lúc ông 45 tuổi. Hai năm sau, để xây dựng nội lực nuôi dưỡng công cuộc đấu tranh lâu dài, ông đã cùng với các chiến hữu của ông sáng lập ra Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng. Một lần nữa ông được đề cử làm Chủ tịch đảng để lãnh đạo Đảng Việt Tân trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và canh tân đất nước.

Giai đoạn 5 năm sau đó từ 1982 đến 1987 đánh dấu một thời kỳ cực kỳ khó khăn, phức tạp và nguy hiểm. Khó khăn vì cả nền tảng của công cuộc đấu tranh đã phải xây dựng trong hoàn cảnh thiếu thốn, hoàn toàn chỉ dựa vào sức của chính dân tộc Việt Nam làm căn bản. Phức tạp vì những sự nghi kỵ, tấn công từ nhiều phía lại làm khó khăn thêm chồng chất. Và nguy hiểm vì môi trường hoạt động thường xuyên bị đe dọa bởi quân đội cộng sản chưa kể đến những rủi ro khác của rừng sâu, nước độc.

Dầu khó khăn vô vàn nhưng ông và các chiến hữu đã không sờn lòng, nỗ lực bắt tay với những lực lượng dân chủ đang đấu tranh tại quốc nội, đồng thời đưa cán bộ Việt Tân về hoạt động trong nước để xây dựng hạ tầng cơ sở và phát triển nhân sự. Tháng 7 năm 1987, lượng định rằng sự hiện diện tại quốc nội của ông và bộ phận lãnh đạo Việt Tân là điều cần thiết trước những biến chuyển của tình hình, ông đã cùng với một số cán bộ chỉ huy rời hậu cứ trên đất Lào để tiến về quê hương.

Nhưng chuyến đi này lại là định mệnh. Ngày 28 tháng 8 năm 1987, ông và những chiến hữu thân cận nhất đã cùng nhau hy sinh cho đất nước, cho lý tưởng tự do khi chỉ còn cách quê hương Việt Nam có vài chục cây số.

Kể từ đó đến nay đã tròn 20 năm. Vì hoàn cảnh khó khăn và phức tạp, nhất là vì thời gian còn quá ngắn nên đã chưa có nhiều tài liệu được phổ biến về những hoạt động của tướng Hoàng Cơ Minh và những người tiên phong sáng lập Đảng Việt Tân. Ngày hôm nay, đã 20 năm trôi qua, công cuộc đấu tranh cho dân chủ tại Việt Nam vẫn còn đang tiếp diễn nhưng với sự tham gia của một thế hệ đảng viên Việt Tân mới bên cạnh lớp người đi trước vẫn còn đang miệt mài với vận mạng của đất nước.

Tại hải ngoại cũng như tại quê nhà, một thế hệ trẻ cũng đã trưởng thành với những tầm nhìn khác xưa về cuộc diện đấu tranh cho một tương lai tươi sáng của dân tộc. Thời điểm đã thuận tiện và có lẽ là cần thiết để nhìn lại một giai đoạn đã qua với những hy sinh hào hùng vì tổ quốc, trong đó có sự hy sinh của tướng Hoàng Cơ Minh và những chiến hữu của ông.

Vì lý do đó, tập sách này được thực hiện nhằm trình bầy một phần nào về con người và hoạt động của tướng Hoàng Cơ Minh, về những chiến hữu của ông và về một giai đoạn đấu tranh cho tự do mà Đảng Việt Tân đã đóng góp cả công sức lẫn xương máu. Đây còn là một nỗ lực để ghi nhớ công lao của tất cả những đảng viên Việt Tân đã nằm xuống vì dân tộc. Hình ảnh của họ sẽ không bao giờ phai nhạt với những lớp đảng viên Việt Tân tiếp nối, và mong rằng các thế hệ Việt Nam mai sau cũng sẽ không bao giờ quên những người "hào kiệt" đã quên mình chính vì tương lai của những lớp người đi sau.

Thứ Tư, 1 tháng 8, 2007

Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam

Chương I

Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam

Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam ra đời vào ngày 30 tháng 4 năm 1980. Lúc đó, bối cảnh quốc tế và quốc nội mang nhiều dấu ấn đặc biệt.

Đối với quốc tế, đó là thời kỳ căng thẳng nhất của sự xung đột giữa hai khối cộng sản đứng đầu là Liên Xô khối tự do đứng đầu là Hoa Kỳ,  với sự bành trướng các ảnh hưởng của Liên Xô đến các quốc gia cộng sản dẫn đến cao điểm là cuộc xâm lăng A Phú Hãn của Hồng Quân Liên Xô vào năm 1979.

Đối với quốc nội, Cộng sản Việt Nam đã kéo giật lùi đất nước vào tình trạng nghèo đói và khống chế toàn diện, dẫn đến cao điểm là cuộc chiến xâm lược Campuchia vào năm 1979 và cuộc xung đột biên giới với Trung quốc vào đầu năm 1980.

Những diễn biến của tình hình nói trên, đã làm cho Cộng sản Việt Nam càng hung hãn với những chính sách cai trị khắc nghiệt: Tù cải tạo. Kinh tế mới. Cải tạo công thương nghiệp. Đổi tiền.... cùng với chủ trương 'tiến nhanh tiến mạnh lên xã hội chủ nghĩa' đã đẩy người dân vào cuộc sống lầm than không có bút mực nào kể xiết.

Để giải phóng toàn dân ra khỏi tình trạng khắc nghiệt nói trên, Mặt Trận đã tiến hành cuộc đấu tranh dựa trên hai nền tảng căn bản.

Thứ nhất, đây là cuộc đấu tranh giữa đại đa số bị trị đứng dậy chống lại một thiểu số thống trị để giải phóng chính mình và dân tộc mình.

Thứ hai, đây là cuộc đấu tranh dựa trên nội lực của dân tộc Việt Nam.

Từ hai nền tảng này, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam đã tiến hành cuộc đấu tranh vận dụng trong suốt hai thập niên vừa qua....

Lời Hiệu Triệu Của Chiến Hữu Hoàng Cơ Minh, Chủ Tịch Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam

Ngày 8 tháng 3 năm 1982, Mặt Trận đã tổ chức buổi lễ Công bố bản Cương Lĩnh Chính Trị tại căn cứ 81 trong vùng biên giới Thái Lào. Đây là một ngày lịch sử, vì kể từ ngày này, công cuộc kháng chiến Việt Nam đã tiến lên một bình diện quy mô có tổ chức, có đường lối, có lãnh đạo. Tại buổi lễ lịch sử này, chiến hữu Hoàng Cơ Minh đã đọc lời Hiệu Triệu Đồng Bào về công cuộc đấu tranh Giải Phóng Việt Nam.


Kính thưa đồng bào thân mến,

Sau hơn ba mươi năm chiến tranh, với biết bao hy vọng của toàn thể nhân dân ta cả hai miền Nam-Bắc về một quốc gia độc lập, về một đời sống tự do và hạnh phúc, đều đã bị tan vỡ theo ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Kể từ ngày bạo quyền Việt cộng chiếm được miền Nam tự do, trọn vẹn đất nước thân yêu của chúng ta bắt đầu trải qua những ngày đen tối nhất của lịch sử dân tộc. Những ước mơ cực kỳ đơn giản của con người, như một đời sống thanh bình trong một mái gia đình êm ấm, một đời sống đủ cơm ăn áo mặc, đã là những hình ảnh quá xa vời và hầu như không còn có thể thực hiện được nữa.

Đồng bào miền Bắc, sau bao năm "thắt lưng buộc bụng", sau bao năm "hột gạo xẻ làm ba, làm tư", những tưởng là sẽ giải phóng được miền Nam "nghèo đói", đã bàng hoàng trước đời sống phong phú về cả vật chất lẫn tinh thần của nhân dân miền Nam, mà đau xót biết rằng mình đã bị lường gạt trắng trợn trong bao nhiêu năm, để nhận thấy rằng chính miền Bắc mới là phần đất cần phải được giải phóng.

Đồng bào miền Nam, vì quá mỏi mệt với chiến tranh sau bao nhiêu năm lầm lẫn ước mơ "hòa bình bằng mọi giá" cũng đã rúng động dưới guồng máy cai trị tàn bạo và đầy hận thù của chế độ, để hối tiếc rằng chúng ta có thể chấp nhận hòa bình bằng mọi giá, ngoại trừ cái giá phải "sống dưới gông cùm Việt cộng", cái giá quá đắt mà chúng ta không bao giờ có thể chấp nhận được.

Từ nhiều năm nay, bạo quyền Việt cộng luôn luôn rêu rao là yêu chuộng hòa bình, là hòa hợp hòa giải dân tộc, nhưng ngay sau khi chiếm được trọn vẹn Việt Nam, và khi đã khép chặt được gông cùm lên cổ người dân, chúng đã áp dụng một chính sách cai trị hà khắc, đầy hận thù và lại tiếp tục đưa đất nước vào khói lửa chiến tranh.

Bao nhiêu trăm ngàn đồng bào ta , bà con anh em chúng ta, đã chết âm thầm và nhục nhã trong các trại tập trung, trại học tập cải tạo.

Bao nhiêu trăm ngàn đồng bào ta, bà con anh em chúng ta, đã chết đau đớn trên đường chạy khỏi nanh vuốt bạo quyền.

Và ngay trong giờ phút này đây, trên khắp nẻo đường đất nước, trên khắp rừng sâu núi thẳm Đông Dương, trên khắp vùng Tây Bá Lợi Á đầy tuyết lạnh ở Nga Xô mù mịt xa xôi kia, bao nhiêu trăm ngàn bà con quyến thuộc của chúng ta đang đau đớn kéo dài kiếp sống tù đày cô đơn, đem sức lao động để phục vụ cho một thiểu số bạo chúa tại Hà Nội cũng như tại Nga Xô. Người ở lại xót thương các người thân yêu bị giam cầm trá hình, hàng ngày phải kéo dài kiếp sống nô lệ mà nước mắt chan hòa. Bao nhiêu bậc cha già, bao nhiêu người mẹ hiền, bao nhiêu người vợ dại, bao nhiêu đứa con thơ, ngơ ngác đợi ngày về của người thân yêu mà ngày về hoàn toàn biệt vô âm tín. Thảm cảnh này thật kêu không thấu trời xanh, làm sao mà tả nổi những nỗi ai oán mà dân tộc ta đã phải chịu đựng từ hơn sáu năm nay.

Kinh tế mới, chế độ hộ khẩu, mậu dịch quốc doanh, hợp tác xã, lãnh đạo thiển cận và kiêu căng, cán bộ không có khả năng và nhũng lạm, đường lối quản trị quốc gia cũng như chính sách đối ngoại sai lầm, kế hoạch không tưởng,... đã là nguyên nhân tạo nên đời sống cơ cực của chúng ta ngày hôm nay. Mực sống cơ cực ra sao, chúng ta là nạn nhân, chúng ta biết rất rõ.

Rồi để ngăn ngừa người dân bất mãn chống đối, chúng thiết lập màng lưới công an để khủng bố đàn áp. Nhìn trước, nhìn sau, trông phải trông trái, con người luôn luôn lo sợ. Người hàng xóm có còn là hàng xóm hay không? Người bạn hôm trước nay đã báo cáo những gì về ta?... Đời sống phập phồng, con tim hồi hộp. Một tiếng kẹt cửa, một bước chân bất thường ban đêm, một vài tiếng chó sủa vu vơ trong bóng tối... cũng đủ để chúng ta nhớn nhác lo âu. Bên cạnh các biện pháp khủng bố, chúng còn coi thường người dân, tưởng có thể đánh lừa chúng ta bằng những danh từ hoa mỹ nào là đỉnh cao trí tuệ loài người, nào là nước Việt Nam giàu mạnh muôn năm.... Đỉnh cao trí tuệ gì mà người dân không có nổi cái khố để mặc. Nước Việt Nam giàu mạnh gì mà người dân không có nổi miếng cơm để ăn.

Tạo nỗi thống khổ cho toàn dân trong nước chưa đủ, bạo quyền Việt cộng còn cam tâm đưa tổ quốc vào vòng nô lệ của Nga Xô, đưa con dân Việt vào vùng lửa đạn để phục vụ giấc mộng bá quyền của mẫu quốc. Bao thanh niên Việt đã bỏ mình trên chiến trường Lào. Bao thanh niên Việt đã bỏ mình trên chiến trường Kampuchea, bao thanh niên Việt đã bỏ mình trên mặt trận biên giới Việt-Trung. Bao nhà cửa phố xá, thôn ấp, ruộng đồng... đã bị tàn phá bởi chiến tranh do chúng chủ xướng.

Do những lỗi lầm và tội phạm của chúng, bạo quyền Việt cộng đang lâm vào tình trạng khó khăn tột độ.

Cả khối quốc tế của chúng đang bị rạn nứt trầm trọng. Mẫu quốc Nga Xô, nguồn tiếp vận và yểm trợ chính yếu của bạo quyền Việt cộng, cũng đang bị cả thế giới lên án khi chúng xua quân chiếm A Phú Hãn, khi chúng góp sức đàn áp anh chị em công nhân tại hai quốc gia này, đế quốc Nga Xô đang gặp sức đối kháng mãnh liệt. Bản thân bạo quyền Việt cộng, ngoài việc phải đối phó với sự chống đối của toàn khối dân tộc năm mươi triệu người trong nước, chúng lại còn đang bị lâm vào thế tứ bề thụ địch. Bị cầm chân tại Lào, sa lầy tại Kampuchea, phải dồn quân lên đỡ mặt trận biên giới Việt-Trung, bị cả thế giới lên án vì chính sách sai lầm trong nước, vì đã vô nhân đạo dùng vũ khí hóa học tại Lào và Kampuchea, vì chính sách hiếu chiến xâm lấn các nước láng giềng, nên bạo quyền Việt cộng hiện đang bị hoàn toàn cô lập. Chúng càng cố gắng vùng vẫy bao nhiêu, thì lại càng tiến mau tới sụp đổ bấy nhiêu.

Từ hơn sáu năm nay, nhiều người trong chúng ta đã cố gắng nhẫn nhục, cố gắng chịu đựng cuộc sống đầy khó khăn bất công và vô lý, để hy vọng vào một ngày mai đất nước tươi sáng hơn. Nhưng mọi nhẫn nhục chịu đựng đều có giới hạn. Và hôm nay đây, cái giới hạn đó, chúng ta tuyên bố là không còn nữa.


Hỡi tất cả anh chị en Quân, Cán, Chính trong hàng ngũ Việt cộng!

Cách đây ba mươi sáu năm, cùng với bao con dân Việt Nam khác, anh chị em đã hy sinh xương máu trong một cuộc chiến mệnh danh là để giành độc lập cho Tổ Quốc. Dẫu sự hy sinh này đã bị tập đoàn bạo quyền Việt cộng lợi dụng để củng cố quyền hành của chúng, nhưng những sự hy sinh này đã thực sự phát xuất từ lòng yêu nước nồng nàn của anh chị em. Cũng chính bởi sự hy sinh đã xuất phát từ lòng yêu nước đó, nên toàn dân luôn luôn ghi ơn.

Trong cuộc chiến từ năm 1960 đến năm 1975 vừa qua, anh chị em đã hoàn toàn bị lừa gạt và vẫn yên chí là chiến đấu để giải phóng miền Nam "nghèo đói và bị bóc lột bởi Hoa Kỳ". Vì không biết sự thực, nên do lòng yêu nước, yêu dân tộc, anh chị em đã đóng góp quá nhiều hy sinh to lớn. Những hy sinh đó, được phát sinh từ lòng yêu nước, yêu dân tộc mà ra, Tổ Quốc luôn ghi nhận và biết ơn.

Nhưng tới hôm nay, anh chị em đã nhìn thấy sự thực. Anh chị em đã thấy rõ rệt là toàn dân ta đã bị tập đoàn Việt cộng đánh lừa. Miền Nam mà anh chị em vừa hãnh diện chiếm được không phải là mảnh đất nghèo đói, khốn khổ như anh chị em đã từng được nghe nói trong quá khứ. Mà trái lại, cuộc sống tại miền Nam thật là phồn thịnh, người dân thật tình sống tự do và hạnh phúc, nếu chưa thật hoàn toàn, thì chắc chắn cũng hơn đời sống miền Bắc trăm ngàn lần. Hãy thử so sánh cuộc sống của đồng bào ta tại miền Bắc với cuộc sống của đồng bào ta tại miền Nam trong suốt thời gian từ năm 1954 đến năm 1975, anh chị em sẽ thấy tập đoàn bạo quyền Việt cộng đã kìm hãm đà phát triển cũng như tàn phá phân nửa quê hương miền Bắc của chúng ta như thế nào? Cũng lại so sánh miền Nam năm 1975 với miền Nam của chúng ta hôm nay, anh chị em lại cũng sẽ thấy dưới ách thống trị của bạo quyền Việt cộng, quê hương của chúng ta đã bị rách nát như thế nào? Dân tộc của chúng ta đã bị đày đọa như thế nào?

Vậy thì nay là lúc anh chị em phải bình tĩnh và sáng suốt để không tiếp tục hy sinh một cách mù quáng nữa. Tưởng là yêu nước, mà thực ra là phản quốc. Tưởng là đang xây dựng quê hương mà thực ra là đang tàn phá quê hương. Đây là lúc anh chị em phải có thái độ dứt khoát.

Hãy cùng với toàn thể nhân dân, vùng lên lật đổ tập đoàn thống trị Hà Nội để cùng cứu nước, cứu dân, và cứu chính anh chị em.

Hãy can đảm tiếp tay với các lực lượng kháng chiến dưới mọi hình thức.

Bất cứ lúc nào có dịp, từng người, từng nhóm, từng đơn vị... hãy mau lẹ tìm cách liên lạc và cộng tác với các lực lượng võ trang kháng chiến.

Hãy tránh giao tranh với lực lượng võ trang của dân tộc nếu bị bắt buộc phải ra chiến trường.

Hãy phản đối và chống các hành động xâm lăng các nước láng giềng. Người Việt Nam không muốn ai xâm chiếm Việt Nam, thì người Việt Nam cũng không thể đem quân xâm chiếm bất cứ quốc gia nào khác.

Chiến Hữu Hoàng Cơ Minh với Những Bước Chân Đông Tiến
Hỡi tất cả đồng bào ta hiện đang ở hải ngoại!

Năm chục triệu dân ta đang khóc ra máu mắt trong ngục tù trần gian này, trông chờ từng giây, từng phút ngày được giải phóng. Mặt Trận thiết tha kêu gọi sự yểm trợ và hậu thuẫn của tất cả đồng bào hải ngoại.

Hãy quyết tâm đoàn kết thành một khối vững mạnh.

Tình nguyện trở về nước nhà chiến đấu, đóng góp tài chánh, tham gia các hoạt động nhằm tố cáo nỗi thống khổ của dân ta với thế giới, tranh thủ các quốc gia yểm trợ cuộc kháng chiến của dân tộc ta... đều là những việc làm cấp thiết để cứu dân, cứu nước.

Hôm nay đây, Mặt Trận nhờ Tổng Vụ Hải Ngoại chuyển tới đồng bào thân mến trên khắp năm châu hải ngoại, màu cờ thiêng liêng và yêu dấu của chúng ta, tượng trưng cho lòng yêu thương của toàn dân trong nước đối với đồng bào hải ngoại, tượng trưng cho tình đoàn kết sắt son của dân tộc ta, và cũng tượng trưng cho sự kỳ vọng của năm mươi triệu con tim trong nước vào tình thương dân tộc, tình nghĩa đồng bào của dòng giống Lạc Hồng chúng ta.

Hỡi toàn thể đồng bào!

Vì tương lai của dân tộc, vì tương lai của đất nước, vì tương lai của con em chúng ta, vì tương lai của chính chúng ta, vì tương lai của toàn thể Việt Nam yêu dấu, chúng ta hãy can đảm vùng lên, vai bên vai, cánh sát cánh, cương quyết lật đổ bạo quyền Việt cộng để cứu nước và xây dựng đất nước.

Hãy làm tất cả những gì có thể làm được.

Hãy ngưng ngay mọi toan tính vượt biên, vượt biển. Dừng lại, cùng với toàn dân ngăn chận và tiêu diệt kẻ thù.

Hãy tích cực ủng hộ, che dấu, yểm trợ và hướng dẫn các lực lượng võ trang kháng chiến.

Hãy tìm và tham gia các đội ngũ võ trang kháng chiến.
Hãy cùng nhau tự thành lập đội ngũ kháng chiến, tự thành lập các ổ kháng chiến. Mỗi khu phố, mỗi góc làng, mỗi căn nhà đều có thể là một khu chiến.

Hãy ngăn chận và tiêu diệt giặc bất cứ lúc nào và tại bất cứ đâu. Chúng ta có thể chiến đấu bằng võ khí, không có võ khí chúng ta chiến đấu bằng dao, bằng búa, bằng gậy gộc. Hãy bao vây và phong tỏa quân giặc để chúng không dám bước chân ra khỏi ngõ. Trông đàng trước, chúng phải ưu tư đàng sau. Ngoảnh mặt để dè chừng đàng sau, lại phải ưu tư đàng trước.

Hãy can đảm chống lại các chính sách phá hoại đất nước của giặc. Hãy đứng dậy đòi cha, đòi chồng, đòi con em chúng ta phải được lập tức trở về đoàn tụ với gia đình.

Hãy chống chính sách thu mua với giá rẻ mạt. Chúng ta làm, chúng ta hưởng. Không ai, không một chính quyền nào có thể bắt ép và bóc lột người dân.

Hãy chống chiến tranh, chống bắt lính, chống bắt phu gửi đi phục vụ đế quốc Nga Xô. Chúng ta nhất quyết không hy sinh xương máu để phục vụ ngoại bang, để gieo tang tóc cho các nước láng giềng.

Hãy tìm mọi cách để bịt mắt bưng tai quân giặc.

Và cuối cùng, hãy chuẩn bị để cùng với lực lượng võ trang đồng Tổng Nổi Dậy để giải phóng quê hương trong những ngày sắp đến.

Sức mạnh của năm chục triệu dân ta sẽ là khối sức mạnh vạn năng mà không một kẻ thù nào có thể chống lại được.

Cuộc đấu tranh lịch sử này sẽ vô cùng gian lao, khó khăn và dai dẳng, nhưng chiến thắng này cũng sẽ vô cùng to lớn. Đây là trận chiến cuối cùng để mãi mãi chấm dứt chiến tranh, chấm dứt khổ đau, chấm dứt bất công trên quê hương yêu dấu.

Vững tin vào sức mạnh dân tộc, chúng ta cùng quyết tâm

GIẢI PHÓNG VIỆT NAM

Chiến hữu Hoàng Cơ Minh trong một buổi sinh hoạt tại khu chiến

Chính Nghĩa Đại Cáo

Có khoan dung mới có Tự Do
Không Phát Triển quyết không Độc Lập
Còn chủ thuyết là còn bế tắc,
Hết vong nô mới hết đọa đày.
Xét dân Việt ta,
Lòng khoan dung có tự nghìn xưa,
Đã hòa đồng không phân tam giáo,
Có Văn Hóa, có Nhân, có Nghĩa,
Có Tổ Tiên, có gốc, có nguồn,
Trọng Con Người, trọng Vật, trọng Tâm.
Trọng Luân Lý, trọng Văn, trọng Lễ.
Trong thôn xóm vương tình lân lý,
Ngoài nước làng là nghĩa tương thân,
Giàu, nghèo, có phúc, có phận,
Sang, hèn, trau đức, trau thân,
Không thù, không oán, vẫn ơn Phật, Trời.
Thơ văn chan chứa tình người,
An cư, lạc nghiệp, sống đời đạm thanh.
Niềm vui Đoàn Tụ, Thái Bình,
Tâm tư hướng thượng, nặng tình nước non.
Mà nay,
Chỉ có duy vật, vô thần,
Chỉ toàn cực đoan, cố chấp,
Chỉ thấy căm thù, hờn ghét,
Chỉ còn bất nghĩa, phi nhân.
Tình người teo tựa khẩu phần,
Bụng dân rỗng như khẩu hiệu.
Thơ văn dế ve môt điệu,
Ngôn từ sắt rỉ một lò.
Tớ, thầy, một lũ vong nô,
Lớn, bé, một bầy lang sói.
Tố cáo rình mò nên thói,
Xảo gian tráo trở thành nền.
Tư tưởng thấp hèn,
Tâm địa nhỏ nhen,
Xum xoe cơm áo,
Dân đen đè đầu.
Tự Do, Độc Lập, nào đâu?
Gái, trai, già, trẻ, ngựa trâu một đời.
Xét nước Việt ta,
Đã bốn ngàn năm dựng nước,
Nay năm mươi triệu con dân,
Bao trang lịch sử oai hùng,
Một giải non sông trù phú.
Khí, dầu, quặng, mỏ,
Biển rộng, non cao,
Kinh, lạch, sông, ngòi,
Phù sa màu mỡ.
Nhẫn nại, không nề gian khổ,
Cần cù, bao quản gió sương,
Ý chí kiên cường,
Cánh tay dũng cảm,
Khối óc sáng tạo,
Khéo léo, tài ba.
Đấu tranh độc lập,
Xây dựng Quốc Gia.
Một lòng vì nước, vì nhà,
Giữ cho trong Thái, ngoài Hòa,
Dân giàu nước mạnh, nề hà tấm thân.
Mà nay,
Ruộng nông trường, thóc giống bấm đôi,
Tổ chài lưới, thuyền chui quá nửa,
Máy công nghệ, ốc, dây, tháo gỡ,
Sức cần lao, từng bữa xếp hàng
Cả nước lãn công,
Toàn dân đối kháng.
Kẻ rời khỏi xứ,
Kẻ bị tù đày,
Kẻ sống lất lay,
Kẻ đi nghĩa vụ.
Kinh tế phá sản, kế hoạch còn vượt chỉ tiêu,
Xã hội nát tan, chủ nghĩa vẫn tiến vững chắc.
Gây chiến cả ba quốc gia lân cận,
Đứng hàng thứ năm về mức bần cùng,
Hiện tại xám đen,
Tưong lai tối mịt
Xét lịch sử ta,
Cuộc tuần hoàn bỉ rồi lại thái,
Vận quốc gia cùng tất sẽ thông,
Những bạo chúa, hôn quân,
Đều tan cơ, nát nghiệp.
Tiền nhân bao tâm huyết,
Con cháu dám đùa chơi,
Ý dân là ý trời,
Lòng dân là thiên mệnh.
Phi dân tộc tự nhiên đào thải,
Hại quốc gia lẽ tất suy tàn.
Kìa nhà Hồ, chính sự phiền hà, đã phải sụp tan,
Nọ triều Nguyễn, lề luật khắt khe, cũng đành mất nghiệp.
Huống chi chúng bây,
Rước về chủ thuyết tam vô,
Mông lung nào biết bến bờ là đâu?
Đường đi mù mịt, cơ cầu,
Bao nhiêu xương máu dâng trao thuyết tà.
Tự do cuội,
Độc lập ma,
Chúng dân xơ xác, quốc gia hoang tàn.
Dìm gần nửa triệu dân xuống biển Thái Bình, lòng vẫn chưa cam;
Hiến ngót hai triệu mạng lên đền Chủ Nghĩa, chí còn chưa thỏa.
Đói khổ càng thêm đói khổ,
Binh đao tiếp nối binh đao,
Nướng thanh niên trên lò lửa Miên, Lào;
Vùi công thợ dưới tuyết băng Nga, Tiệp.
Lúa gạo Liên Xô vơ hết,
Than dầu nước bạn vét nhanh,
Biển đẹp, non xinh để cố vấn đàn anh
Kiết keo, thô bạo,
Sơn lam, chướng khí dành dân kinh tế mới
Đá sỏi, muỗi mòng.
Trả mấy đời cũng chưa hết nợ nần,
Lộn mấy kiếp vẫn chưa xong nghĩa vụ.
Bốn mươi năm chinh chiến, nhận lãnh bao súng đạn,
rõ ràng bộ mặt tay sai;
Ba chục năm khổ lao, kiếm chẳng đủ bát cơm,
đúng là kiếp thân nô lệ.
Từng bữa trói dân một tờ hộ khẩu, nói tự do mà không biết dơ;
Mỗi ngày xin chủ năm triệu đô la, hô độc lập mà không thấy nhục.
Mang chủ thuyết dịp lòe dân tộc,
Mà đầu đàn giáo lý chưa thông,
Tàn đời vẫn quên Tổ, quên Tông,
Muốn gặp những cụ Lê, cụ Mác.
Tội chúng bây, chính tội Đại Ác:
Hạ con người xuống hàng cầm thú,
Nuôi căm thù thay lẽ nhân luân,
Lấy miếng ăn gò trói ý tình
Đưa gian dối lên hàng cương kỷ.
Tội chúng bây, chính tội Đại Gian:
Mượn chiêu bài độc lập tự do,
Đem chủ nghĩa đọa dày dân tộc,
Dùng lý tưởng hy sinh yêu nước,
Cướp mồ hôi xương máu nhân dân.
Bắt thờ bác đảng, còn gì Trời, Phật, Thánh, Thần,
Ép học tam vô, biết đâu Liêm Sỉ, Đạo Đức.
Tuổi già không thuốc thang chờ chết,
Trẻ thơ thiếu dinh dưỡng, còm cỏi, ngu đần.
Nay,
Thế giới chuyển mình, cộng sản đàn anh đang bí lối,
Nhân dân vùng dậy, quốc gia vấn nạn sẽ khai thông.
Nào những ai,
Quê hương dâng hiến tâm can,
Nào ngờ tơi tả, hoang tàn núi sông.
Cam phường bội phản cướp công,
Bao nhiêu xương máu ra nông nỗi này
Nào những ai,
Có ăn, có học,
Có mắt, có tai,
Sợ nhìn thế giới bên ngoài,
những mong tìm cách sửa sai,
Dã tràng công cốc với loài xuẩn ngu.
Nào những ai,
Nông trường kiệt sức,
Hầm mỏ khổ lao,
Miếng khoai, miếng sắn,
Thiếu áo, thiếu cơm,
Lất lay chết héo, chết mòn,
Vinh quang lao động, béo tròn Trung Ương.
Nào những ai,
Nhục nhằn thân chiến bại,
Lơ láo tiếng ngụy dân;
Phút giây rã ngũ tan hàng,
Bỗng chốc tù đày, ly tán.
Nào những ai,
Thanh niên, bộ đội,
Sức sống trào dâng,
Khuyển nô nghĩa vụ vong thân,
Một đời trai trẻ tế thần Mác Lê.
Nào những ai,
Công an khu vực,
Quản giáo an ninh,
Ngày dò la củng cố xích xiềng,
Tối rình rập xiết thêm cùm kẹp.
Đức tiên tổ nỡ mua cục thịt
Phúc cháu con cam đổi miếng ăn.
Nào những ai,
Một thời tin chủ nghĩa,
Nay thấy rõ chính, tà,
Lỡ đời mình mắc hợm bợm già,
Nhìn tương lai xót thương con trẻ.
Nào những ai,
Tha phương thân lưu lạc
Mỹ, Úc, Á, Phi, Âu,
Ngỡ ngàng trông mái tóc thay màu,
Ngao ngán nỗi cháu con vong quốc
Có hay chăng,
Nay Kháng Chiến lấy dân làm gốc,
Lòng dân ta sức mạnh vô bờ,
Tựa sóng triều cuốn hết cành khô
Như giông bão trút phăng lá úa,
Quét sạch bọn gian tà, cướp của
Đuổi hết phường lụn nước bại dân.
Vứt bỏ ngay chủ nghĩa vô thần,
Dẹp tức khắc giáo điều duy vật,
Xây xã hội trên nền Đạo Đức
Đưa quốc gia tới chỗ Phú Cường
Tan hận thù, dựng lại Tình Thương,
Hết gian dối, phục hồi Chân Thật.
Thôi bóc lột, có làm có hưởng,
Dứt đọa đày, lao tác, lao tâm
Thuận lòng dân, thuận lý, thuận tình,
Cứu tương lai, cứu nòi, cứu giống
Lòng yêu nước, sức vươn Phù Đổng
Chí kết đoàn, móng vuốt Kim Quy
Cương quyết, kiên trì,
Tim ghi, gan khắc
Lời thề son sắt
Giải Phóng Việt Nam,
Lật trang ô sử,
Lấy lại giang san,
Muôn dân thoát cảnh lầm than,
Đắp xây Độc Lập, bảo toàn Tự Do.
Khí thiêng sông núi hẹn hò
Tiền nhân chứng giám,
Hậu thế xét soi,
Đại Cáo Đất Trời
Sáng ngời Chính Nghĩa.

Dư Luận Về Buổi Lễ Công Bố Cương Lĩnh Chính Trị ngày 8 tháng 3, 1982

Đề cập đến Kháng Chiến Việt Nam sau lễ công bố Cương Lĩnh Chính Trị của MTQGTNGPVN, đã có những cơ quan truyền thông sau đây loan tải:

Việt Ngữ: Bản Tin (Sherbrooke, Canada); Chiến Sĩ Cộng Hòa (CA, USA); Chiến Hữu (Paris, France); Con Ong (TX, USA); Dân Việt (Kansas, USA); Đặc San Trường Xuân (WA, USA); Đất Mới (WA, USA); Đất Việt (Swiss); Đời (CA, USA); Độc Lập (West Germany); Đông Phương (WA, USA); Gươm Thiêng (Manitoba, Canada); Gươm Thiêng (Victoria, Australia); Hồn Việt (CA, USA); Huynh Đệ (CA, USA); Khánh Anh (Paris, France); Không Quân (CA, USA); Liên Lạc (CA, USA); Lý Tưởng (CA, USA); Người Việt (CA, USA); Nhân Chứng (CA, USA); Nhân Bản (Paris, France); Quốc Hận (CA, USA); Sống (Ontario, Canada); Tài Chính Thời Báo (CA, USA), Tin Ảnh (CA, USA); Tin Biển (CA, USA); Tiếng Gọi (New Zealand); Tiếng Việt (CA, USA); Thằng Mõ (CA, USA); Thanh Niên Tự Do (OR, USA); Thời Nay Hải Ngoại (CA, USA); Thống Nhất (CA, USA); Thương Mại Việt Nam (CA, USA); Truyền Thông (New Zealand), Tuổi Ngọc (CA, USA); Văn Nghệ Tiền Phong (VA, USA); Văn Tiến (Belgium); Việt Chiến (VA, USA); Việt Nam Thời Báo (Australia); Việt Nam Tự Do (CA, USA); Vượt Biển (Canada).

Nhật Báo Hoa Kỳ: The New York Times (NY); The Seattle Times (WA); The Sacramento Bee (CA); The Herald (WA); Daily Press (OK); Seattle Post Intelligence (WA); Oklahoman & Times (OK); Press – Telegram (CA); Metropolitan (TX); Southwest Times Record (CA); Muskogee (AR); Los Angeles Times (CA); San Jose News (CA); San Jose Mercury News (CA); Orlando (FL); Times Tribune (CA); The Register (CA).

Báo Nhật Bản: Yomiuri; Manichi; Sankey; Tokyo Shinbun; Sekai Nippo; Shiso Shinbun; Yamato; Shunkan Bunsun; Shinseiryoku.

Báo Canada: Calgary Herald (Alberta); Our Canada.

Báo Hoa ngữ: Free News (Republic of China); Nanka News; Indochinese News (CA, USA).

Báo Âu-Á Châu: La Suisse (Suisse); Phnom Penh News (Kampuchia).

Truyền Hình: CBS (USA); ABC (USA); NBC (USA); Ottawa (Canada).

Thông tấn xã: UPI, AP.

Trong Đại Hội Thể Thao Bắc Mỹ kỳ X, tổ chức tại thành phố Pontiac, Michigan, vào 3 ngày 5,6,7 tháng 8 năm 1982, đã có 26 phái đoàn thể thao ký tên bày tỏ lập trường ủng hộ Kháng Chiến Việt Nam: Phái đoàn Connecticut; Washington DC; Catholic University (DC); Florida; Fort Wayne (IN); Chicago; Trẻ (IL); Boston; Đại Cồ Việt (ML); Detroit; Minnesota; Plainfield (NJ); Thao Việt (NJ); Rochester (NY); Columbus (OH); Lancaster (PA); Trung Bộ (PA); Lửa Việt (TX); Virginia; Quebec; Manitoba; Montréal; Ottawa; Rive Sud.

Sau đó là hàng loạt những bài văn, thơ, nhạc viết về một tinh thần mới. Có thể đơn cử một vài đoạn tiêu biểu như sau:

"Kìa! Tổ quốc giang sơn ta hoa gấm.
Máu anh hùng tô điểm thắm non sông.
Nhân dân ta là dòng giống Lạc Hồng.
Không khuất phục bọn bao quyền đế quốc.
Thà chết vinh quang còn hơn sống nhục.
Cho cháu con không tủi hổ làm người.
Đem tự do gieo rắc khắp nơi nơi.
Cho nước Việt rạng ngời Đông Nam Á.
Trang sử Việt vẻ vang ôi vô giá.
Một lòng ta noi theo bước tiền nhân...". 

(Nhất Định Thắng, thơ Vĩnh Liêm, nhạc Châu Đình An)

"Thiên anh hùng ca thời đại đang như sóng gió dồn dập trong lòng tôi cũng như mọi người, nên không ai là không cảm thấy, không ai là không rộn ràng. Mọi người như đang sống lại những ngày huy hoàng lịch sử dân tộc. Rõ ràng chính nghĩa không ở với bạo quyền bạo lực mà ở với nhân dân. Khi nhân dân đã vùng lên thì thường ban đầu tuy sức có yếu nhưng có chính nghĩa tất thắng. Lịch sử luôn luôn chứng minh rằng chính nghĩa nhân dân tất thắng. Cái gì đó đang bàng bạc, lâng lâng trong chúng ta, phải chăng đó là anh linh tiên tổ, là hồn thiêng sông núi đã trổi dậy trong ta, đánh dấu ngày quật khởi, này 50 triệu người như một, ngày 50 triệu dân là quân đoàn kết phất cao ngọn cờ đại nghĩa lật đổ bạo quyên Việt cộng, đánh đuổi bọn xâm lược Liên Xô...".
 
(Nguyễn Trung Huấn, PA, Hoa Kỳ - Bản thiên hùng ca).

"Từ bấy lâu nay, chúng ta, ít nhiều đều có nghe nói đến kháng chiến quân tại quê nhà, và gần đây là tin tức về những người tâm huyết đã âm thầm rời bỏ đời sống sung sướng vật chất ở xứ người để trở về quê hương chiến đấu trong một môi trường thiếu thốn đầy cam go. Đa số chúng ta đều bán tín bán nghi truớc những sự việc đó. Cho nên, dẫu có nặng niềm đau Tổ Quốc, chúng ta cũng hoang mang chẳng biết phải làm gì cho quê hương.

Các bạn thân mến,

Hôm nay, như muôn ngàn tia chớp vừa xé rách không gian đen tối, vũ trụ chợt bừng sáng trong hoan ca với lời thông điệp sấm sét: Đường về Việt Nam đã mở...".

(Bảo Ngọc - Thư ngỏ gửi các bạn cựu nữ sinh Trưng Vương).

"Trời đã mới, người càng nên đổi mới
Mở mắt ra thấy rõ ràng Tân Vận Hội
Ghé vai vào xốc vác cứu giang san
Đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan
Dây đoàn thể quyết ghe phen thành nghiệp lại...".

(Cụ Mai Văn Bồng, Texas, Hoa Kỳ)

"Nếu một bước chân của phi hành gia Armstrong trên mặt trăng là tượng trưng cho sự tiến bộ của cả loài người, thì bước chân của kháng chiến quân từ hải ngoại quay về nước là sự tiến bộ của cả dân tộc Việt trong quá trình đấu tranh giải phóng đất nước".

(Một lão nhân sĩ ở Nice, Pháp)

"Xin mẹ hãy yên lòng, có chúng con đã về đây
Những đứa con phiêu bạt phương trời
Những đứa con lưu đày đất khách
Nay đã về. Nay đã về bên mẹ, mẹ ơi.
Em thơ ơi hãy cười lên đi
Ôi ngày vui, ngày vui đã tới
Qua đi rồi bóng tối đêm đen
Bình minh xưa, nay vừa ló dạng...".

(Trịnh Lâm NgânTa Quyết Dựng Lại Cờ)

"Ngày sáng chói sẽ thấy huy hoàng trên đất nước
Ngày quê hương bát ngát ruộng đồng xanh lúa tốt
Bỏ những khốn khó muôn ngàn máu xương hùng anh
Đàn bé cất tiếng hát trên đường đi đến lớp
Thầy giáo xóa vết máu khô bầm trong ký ức
Lá thăm đón nắng như tình mới trao nụ hôn
Làng xóm đón chiến sĩ Bắc Nam rợp cờ vàng...
Có những ngày kiên cường kháng chiến
Máu dân tộc úa màu ruộng nương
Hồn tiền nhân oai linh gào thét cùng núi sông
Ta giống dân chưa từng khuất thân
Gông xích kia quyết đập tan.

Ngày sáng chói sẽ thấy tưng bừng trên đất nước
Ngày khí thế bất khuất xô đạn bom đế quốc
Xóa hết vết tích lao tù tối đen trời Đông
Ngày sáng chói sẽ thấy tưng bừng trên đất nước
Ngày năm châu lưu vong Tiên Rồng quy cố quốc
Thế giới náo nức trong mùa quét tan Hồng quân
Cùng bón xác Mác-xít ngất cao cây Hòa Bình
Có những ngày giống nòi ly tán
Xác dân Việt rúng lòng đại dương
Vùi thân trong phong ba gọi thức: Này thế gian
Mau đứng lên xem mặt sát nhân.
Gương chiếu soi: Đây Việt Nam!

Ngày sáng chói sẽ thấy chan hòa trên đất nước
Ngày dân ta chung vai đem tình thương gánh vác
Góp sức tái thiết vun bồi tấc đất ngọn rau.
Bầy thiếu nữ gánh lúa trên đường đê mới đắp
Cười khúc khích ấm áp trong niềm vui chất phác
Réo rắc tiếng sáo theo làn gió xuân thảnh thơi
Nhà máy mới háo hức khói lung linh mặt trời
Có những ngày "vô thần" thao túng
Máu dân mình ướp ngọn cờ ngoại bang
Mà đàn con đau thương vẫn lớn vượt núi non
Trong khó khăn giống nòi trứ danh
Đây đất thiêng chôn cuồng xâm!"

(Nguyễn Tất NhiênNgày Việt Nam)   

Hình ảnh cụ thể nhất của một "không khí mới", một "vận hội mới", là những sinh hoạt ra mắt dồn dập của các Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến trong năm 1982:

3 tháng 4 - Washington DC;
17 tháng 4 – Santa Ana (CA-USA);
25 tháng 4 – Sacramento (CA-USA);
30 tháng 4 – Hawaii (USA);
1 tháng 5 – Chicago (IL-USA);
1 tháng 5 – Grand Rapid (MI-USA);
1 tháng 5 – Elgin (IL-USA);
1 tháng 5 – Tucson (AZ-USA);
5 tháng 5 - Tokyo (Japan);
11 tháng 5 – Okinawa (Japan);
15 tháng 5 – San Jose (CA-USA);
29 tháng 5 – Fresno (CA-USA);
30 tháng 5 – Houston (TX-USA);
5 tháng 6 – New Orleans (LA-USA);
5 tháng 6 – Morgan (LA-USA);
12 tháng 6 – Montréal (Canada);
16 tháng 6 – Minneapolis (MN-USA)
19 tháng 6 – Bergin (Norway);
26 tháng 6 – Boston (MA-USA);
26 tháng 6 – Stockton (CA-USA);
27 tháng 6 – Pasadena (CA-USA);
3 tháng 7 – Nagasaki (Japan);
5 tháng 7 – Gose (Japan);
6 tháng 7 – Hino (Japan);
7 tháng 7 – Himeji (Japan);
24 tháng 7 - Hamilton (Canada);
25 tháng 7 – Oklahoma City (OK-USA);
30 tháng 7 – Vancouver BC (Canada);
7 tháng 8 – Visalia (CA-USA);
7 tháng 8 – Ponoma (CA-USA);
8 tháng 8 – Portland (OR-USA);
14 tháng 8 – Seattle (WA-USA);
14 tháng 8 – South East (France);
4 tháng 9 – Ottawa (Canada);
4 tháng 9 – Alberta (Canada);
31 tháng 10 – Salt Lake City (UT-USA);
6 tháng 11 – Denver (CO-USA);
20 tháng 11 – Tulsa (OK-UA);
28 tháng 11 – Paris (France);
28 tháng 11 – Marseille (France).

Cũng trong những tháng cuối của năm 1982, hàng loạt các buổi Đại Nhạc Hội yểm trợ kháng chiến đã được tổ chức khắp nơi, quy tụ rất nhiều nghệ sĩ nổi tiếng và các Đoàn Văn Nghệ Kháng Chiến hùng hậu (có những đoàn tập hợp trên 60 đoàn viên trẻ và rất năng động). Tinh thần hưởng ứng của đồng bào lên cao chưa từng thấy, được phản ảnh rõ rệt qua số khán giả tham dự các buổi văn nghệ này:

24 tháng 6 – San Jose (CA-USA);
26 tháng 6 – Dallas (TX-USA);
3 tháng 7 – Los Angeles (CA-USA);
31 tháng 7 – Twin Cities (MN-USA);
17 tháng 8 – Hawaii (USA);
28 tháng 8 – Long Beach (CA-USA);
4 tháng 9 – Washington DC (USA);
4 tháng 9 – Orlando (FL-USA);
5 tháng 9 – Phoenix (AZ-USA);
25 tháng 9 – San Jose (CA-USA);
23 tháng 10 – New Orleans (LA-USA);
24 tháng 10 – Houston (TX-USA);
30 tháng 10 – Chicago (IL-USA).

Một tin buồn của các Đoàn Văn Nghệ Kháng Chiến trong giai đoạn hưng phấn cao điểm này là chiến hữu sáng lập viên Hoàng Cơ Trường đã tạ thế ngày 6 tháng 10 năm 1982 sau một cơn bạo bệnh. Trước lúc ra đi, chiến hữu Trường còn nhắn lại các anh chị em trong đoàn: "Nơi nào có bóng quốc kỳ, nơi đó có linh hồn tôi hiện diện để sát cánh cùng các chiến hữu trong công cuộc đấu tranh giải phóng tổ quốc và xây dựng quê hương". Câu nói sau cùng này đã được khắc vào mộ bia của chiến hữu Hoàng Cơ Trường.

Đại Hội Chính Nghĩa


Đối với đồng bào tỵ nạn, Đại Hội Chính Nghĩa là một cuộc gặp gỡ có tầm vóc lịch sử của tập thể người Việt ở hải ngoại, ở cả hai ý nghĩa số lượng người tham dự và "hy vọng nở rộ".

Đại Hội được tổ chức suốt ba ngày 28, 29, 30 tháng Tư năm 1983 tại Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ, quy tụ 96 Ủy Ban Yểm Trợ Kháng Chiến trên toàn thế giới. Chủ tịch Ủy Ban Tổ Chức là cụ Linh Quang Viên, một trong những sáng lập viên của Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến.

Đây là một phong trào nhân dân tự phát, hình thành từ lòng yêu nước vô bờ và tinh thần phục vụ cao độ của những con dân Việt Nam vừa mới vượt thoát ra khỏi địa ngục cộng sản chưa đầy 8 năm. Phong trào khởi đi từ Hoa Thịnh Đốn, tràn qua năm châu bốn biển như sóng lớn triều dâng, đến trạm cuối lúc bấy giờ là Tân Tây Lan. Nhiều nơi, phong trào thành hình từ một mẹ già, một bô lão, hay một thanh niên vừa ra khỏi trại tỵ nạn. Không ai có thể ngờ rằng phong trào phát triển nhanh đến vậy, rộng đến vậy, mà phần lớn thành viên không biết mặt nhau, hay chỉ thoáng nghe về nhau. Phải có một cơ hội để mọi người gặp gỡ, trực tiếp bắt tay nhau, và nói thẳng cho nhau nghe những điều cần nói: những tâm niệm, những trăn trở, những bức xúc, những đề nghị... Và cũng để thu nhận những kinh nghiệm đóng góp từ các Ủy Ban bạn ở nơi khác. Ngày đầu tiên của Đại Hội, 28-4-1983, chính thức được đặt tên là Ngày Hội Ngộ.

Nhu cầu kiện toàn tổ chức cũng được nhiều thành viên khắp nơi đề cập đến trong các cuộc điện đàm viễn liên. Nhiều người ưu tư về việc cải tổ hệ thống liên lạc, hỗ trợ cho nhau về mặt tổ chức sao cho dễ đáp ứng và theo kịp được sức phát triển của kháng chiến. Thêm vào đó là những đề nghị thiết thực về việc kết hợp sự cộng tác của thành viên Ủy Ban Yểm Trợ với đoàn viên Mặt Trận tại địa phương để đẩy mạnh nỗ lực vận động dư luận quốc tế, cả chính giới lẫn báo giới, ở từng thành phố, từng quận hạt, từng tiểu bang, từng quốc gia.... Sự điều chỉnh, thay đổi cung cách hoạt động này đòi hỏi những cơ hội chia sẻ và học hỏi. Đại Hội Chính Nghĩa dành riêng ngày thứ nhì, 29-4-1983, làm Ngày Học Tập.

Chiến hữu Hoàng Cơ Minh trong một dịp công tác tại Hoa Kỳ
Căn bản hoạt động của MTQGTNGPVN là Chính Nghĩa và Lòng Dân. Lãnh đạo Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến khắp nơi thấy rất rõ là ngoài sự hỗ trợ phương tiện từ kiều bào hải ngoại, trách nhiệm quảng bá chính nghĩa trong công tác dân vận, địch vận và quốc tế vận cũng quan trọng không kém. Ở nhiều lúc, những nỗ lực vận động này còn có ưu tiên cao hơn cả công tác kiều vận "Một Ngày Lương Cho Kháng Chiến" hay "Một Ký Gạo Cho Kháng Chiến Quân"... đã từng thành công rực rỡ nữa. Cốt lõi của sự vận động này đến từ nhiều phạm vi, đòi hỏi khả năng chuyên biệt của nhiều người, với sự phối hợp tung hứng nhịp nhàng và liên hoàn.... Nhưng, chủ yếu hàng đầu vẫn là từ chính người Việt Nam chúng ta trong tiến trình thực hiện Đại Đoàn Kết. Ngày cuối của Đại Hội, 30-4-1983, chính là Ngày Đồng Tâm.

"Tôi vẫn hằng nghe dạt dào trong đêm tối, tiếng Tổ Quốc tôi!
Tiếng nhặt tiếng khoan là quốc kêu bên đường
Tiếng sầu lũy tre là lũ chim sau làng
Tiếng giục nhớ ơn là suối có nguồn cơn
Tiếng ruộng, tiếng nương
Tôi vẫn hằng nghe dạt dào trong đêm tối, tiếng Tổ Quốc tôi!
Tiếng Mẹ tiễn Cha vì nước quên thân mình
Tiếng của bé thơ chờ lớn ra sa trường
Tiếng đàn tiếng gươm vọng mãi bốn nghìn năm
Tiếng khổ trăm đường rạng rỡ tiếng hiên ngang
Tôi vẫn hằng nghe. Tôi vẫn hằng nghe dạt dào đâu đó thôi!
Tiếng kêu vời vợi, khẽ lay tôi dậy, thúc giục tôi đi tới
Tiếng kêu nghiêm giọng lúc hồn tôi rã rời
Lồng lộng thay những tiếng không lời!
Tôi vẫn hằng nghe dạt dào trong đêm tối, tiếng Tổ Quốc tôi!
Trống chùa khẽ buông dịu đau muôn linh hồn
Thánh đường kéo chuông bình minh tan cơn buồn
Có một tiếng riêng gần gũi với tôi hơn:
Tiếng giục quay về từ giã kiếp tha hương!"

(Hà Thúc Sinh - Tiếng Tổ Quốc Tôi)



Đồng Tâm Phát Huy Chính Nghĩa

(Trích một đoạn diễn văn của Chủ Tịch Hoàng Cơ Minh trong ngày Đồng Tâm)

"Kính thưa Cụ Chủ Tịch và toàn thể quý vị trong Phong Trào QGYTKC,
Kính thưa quý vị quan khách,
Kính thưa toàn thể đồng bào,
Kính thưa toàn thể quý chiến hữu,
....

Chúng ta tiến hành một cuộc đấu tranh có Chính Nghĩa. Lấy chính nghĩa để huy động toàn dân. Lấy chính nghĩa để khuất phục kẻ thù. Lấy chính nghĩa để tranh thủ thế giới.

Không một ai, không một đoàn thể nào, không một quốc gia nào khuyến dụ hay ép buộc chúng ta tiến hành cuộc đấu tranh này. Trong khi mà các nước đồng minh rút lui, trong khi mà cả thế giới bưng tai bịt mắt, phó mặc 50 triệu dân ta rên siết dưới gông cùm Việt cộng, thì chính nhân dân ta đã đứng lên đấu tranh để tự giải phóng chính mình. Chúng ta tiến hành đấu tranh vì sự khổ đau của 50 triệu đồng bào trong nước, vì bao trăm ngàn người đã chết oan uổng đau đớn trong mọi xó rừng rậm hoặc đã phải chôn xác giữa đại dương, vì hàng triệu người Việt Nam hiện đang phải sống tha hương, ăn nhờ ở đậu trên toàn thế giới.

Chúng ta không chiến đấu để bảo vệ quyền lợi của một dòng họ như trong thời quân chủ xa xưa. Chúng ta cũng không chiến đấu để bảo vệ quyền lợi của một giai cấp, của một đảng độc tôn. Chính nghĩa của chúng ta là ở chỗ chúng ta chiến đấu để giành độc lập và tự do, vì quyền lợi tối thượng của đất nước, vì lẽ sống còn của toàn dân. Bất cứ cuộc đấu tranh nào do toàn dân phát động để đáp ứng nguyện vọng của người dân, thì đó là cuộc đấu tranh Chính Nghĩa.

Có Chính Nghĩa chưa đủ, chúng ta còn phải quảng bá và phát huy chính nghĩa đó. Phải đem Chính Nghĩa tới khắp hang cùng ngõ hẻm trên đất Việt Nam, phải đem Chính Nghĩa quảng bá khắp thế giới. Phát huy Chính Nghĩa không phải chỉ bằng lời nói, không phải chỉ đi rao truyền rằng chúng ta có chính nghĩa là đủ. Chính Nghĩa còn phải được phát huy bằng hành động.

Sự kiện chúng ta chấp nhận mọi khó khăn, đứng lên phát động cuộc đấu tranh là hành động để làm sáng tỏ, để phát huy Chính Nghĩa. Không ai có thể xuyên tạc mà bảo rằng đây lại là cuộc chiến ủy nhiệm, đây là do xúi giục của ngoại bang. Chính sự bán đứng Tổ Quốc cho đế quốc Nga Xô, đem xương máu thanh niên Việt để phục vụ ý đồ bành trướng của đế quốc; chính sự trả thù và đàn áp dã man trong nước của bạo quyền Việt cộng... đã khiến toàn dân ta phải đứng lên chiến đấu.

Sự kiện chúng ta chấp nhận đóng góp xương máu tài lực để tiến hành cuộc đấu tranh là hành động phát huy Chính Nghĩa, đã nói lên một cách rõ rệt rằng đây là cuộc đấu tranh của chúng ta và do chúng ta tự đảm trách.

Và hôm nay đây, từ khắp năm châu bốn bể, chúng ta về tham dự đại hội này để nói lên quyết tâm giải phóng quê hương của người Việt Nam, cũng chính là hành động để phát huy Chính Nghĩa, để tuyên xưng Chính Nghĩa.

Dưới ngọn cờ Chính Nghĩa đang lộng gió tung bay, chúng ta tiến hành cuộc đấu tranh lấy sức mạnh của dân ta làm căn bản, lấy Đại Đoàn Kết toàn dân làm vũ khí và chiến đấu trường kỳ cho đến khi toàn quốc toàn dân được giải phóng.

Chúng ta không hiếu chiến, chúng ta không mở một cuộc chiến tranh mới, mà chúng ta tiến hành một cuộc đấu tranh giải phóng. Nếu sức mạnh chính yếu của chiến tranh đến từ nòng súng, đến từ đại pháo, xe tăng, thì sức mạnh chính yếu của đấu tranh giải phóng đến từ con tim, đến từ quyết tâm của con người. Sức mạnh chính yếu của đấu tranh giải phóng Việt Nam đến từ 50 triệu con tim rực lửa căm hờn, quyết tâm tiêu diệt tập đoàn bạo quyền Việt cộng.

Vì sức mạnh của toàn dân là sức mạnh chính yếu của đấu tranh giải phóng, vì đấu tranh giải phóng là đấu tranh của toàn dân, nên đấu tranh giải phóng chỉ có sức mạnh nếu huy động được toàn dân tham gia chiến đấu.

Sức mạnh toàn dân này từ ngàn xưa lúc nào cũng có, vẫn luôn luôn tiềm tàng trong mỗi cá nhân chúng ta, tiềm tàng trong đại khối dân tộc chúng ta. Nhưng sức mạnh này chỉ trở nên hữu hiệu, chỉ trở thành một thứ vũ khí sắc bén, nếu sức mạnh đó được kết hợp lại thành một khối, nghĩa là nếu toàn dân đoàn kết. Đoàn kết toàn dân sẽ là vũ khí vô địch để tiêu diệt kẻ thù.

Khi nói tới đoàn kết, chúng ta phải có một cái nhìn toàn bộ và chính xác. Không thể thấy vài ba cá nhân, hay vài chục người cùng đứng trong một đoàn thể mà đã vội vã bảo là đã có đoàn kết. Lại cũng không thể thấy vài ba cá nhân hay vài ba chục người chưa cộng tác được với nhau mà đã vội vã bảo là thiếu đoàn kết, là chưa có đoàn kết. Hai cách nhìn trên đây đều có tính cục bộ và phiến diện. Chưa có đoàn kết mà tưởng rằng có là một sai lầm, nhưng đã đoàn kết được với nhau mà lại cứ tưởng chưa có đoàn kết khiến tinh thần hoang mang giao động cũng lại là một sai lầm tai hại không kém. Đoàn kết của một tập thể rộng lớn không thể chỉ nhìn vào một vài cá nhân, một vài chục người, mà phải nhìn vào quảng đại quần chúng, vì đây mới là sức mạnh chính yếu của tập thể. Nếu quảng đại quần chúng cùng nô nức, kề vai góp sức để làm một công việc chung, để tham gia công tác đấu tranh giải phóng Tổ Quốc, lúc đó ta mới có thể coi là chúng ta đã có đoàn kết....

....

Hôm nay là ngày chót của Đại Hội Chính Nghĩa, tôi xin phép được nhiệt liệt ca ngợi các thành quả giá trị và thực tế mà Đại Hội đã đạt được. Kết quả đúc kết từ các buổi hội thảo sẽ là hành trang vô cùng quý báu để chúng ta cùng hướng nỗ lực vào công cuộc đấu tranh giải phóng và xây dựng đất nước. Việc đặt vòng hoa tại Công Trường Chiến Sĩ Hoa Kỳ sáng hôm nay là một hành động nói lên trọn vẹn lòng chung thủy của dân tộc ta. Chúng ta sẽ không bao giờ phản bội những hy sinh cao quý cho độc lập và tự do cho Việt Nam, nhất là những hy sinh đó là của các chiến sĩ đồng minh, không phải chỉ hy sinh cho độc lập và tự do của Việt Nam, mà còn là hy sinh cho tự do và hòa bình của nhân loại, của thế giới.

Quyết nghị Đồng Tâm vừa được tuyên đọc một cách trọng thể là biểu tượng của lòng yêu nước, của sức mạnh toàn dân, sức mạnh dân tộc Việt Nam, một dân tộc hào hùng bất khuất. Quyết nghị này là một chiến thắng vẻ vang, một tài liệu lịch sử, biểu tựợng cho Chính Nghĩa của cuộc đấu tranh của chúng ta.

Trong một vài ngày nữa, chúng ta sẽ cùng chia tay. Tôi xin cầu chúc tất cả quý vị, tất cả các vị đại diện về đây từ khắp năm châu luôn luôn dồi dào sức khỏe và giữ vững niềm tin, kiên trì đấu tranh cho tới ngày toàn thắng.

Cách đây 700 năm, tại Hội Nghị Diên Hồng, toàn dân ta đã một lòng diệt giặc cứu nước và được thể hiện bằng tiếng hô "Quyết Chiến!" lịch sử. Hôm nay đây, Tổ Quốc đang lâm nguy, tại Đại Hội Chính Nghĩa này, chúng ta quyết noi gương người xưa, cùng xác quyết lời thề son sắt: GIẢI PHÓNG VIỆT NAM".


Quyết Nghị Đồng Tâm

"Hôm nay, ngày 30 tháng 4, năm 1983, tại giữa thủ đô Hoa Thịnh Đốn của Hoa Kỳ,

Chúng tôi, những con dân nước Việt phải xa lìa quê hương, phân tán khắp nơi trên hoàn cầu vì đại họa Cộng Sản Việt Nam,

Đại diện bởi 96 phái đoàn của các Ủy Ban Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến từ Á Châu, Úc Châu và Mỹ Châu cùng tới đây tham dự Đại Hội Chính Nghĩa do Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến tổ chức trong ba ngày 28, 29 và 30 tháng 4, 1983,

Soi sáng bởi lòng yêu nước và tinh thần trách nhiệm của mọi thành phần và mọi thế hệ trước Tổ Quốc Việt Nam,

Sau khi thảo luận, học hỏi và thống nhất tư tưởng,

1. Xét rằng Cộng Sản Việt Nam, một lũ thống trị phản quốc, trung thành với chính sách chuyên chế và bá quyền của quan thầy đế quốc Liên Xô, đã thẳng tay đàn áp và bóc lột đồng bào, đưa dân đi làm nô dịch cho quan thầy đế quốc và đày dân đi xâm lăng các nước láng giềng, đe dọa hòa bình Đông Nam Á,

2. Xét rằng kinh tế và xã hội Việt Nam đã bị lũ thống trị phản quốc Cộng Sản Việt Nam phá hoại để trở thành những khuôn khổ đàn áp và bần cùng hóa đồng bào cho mục tiêu bảo vệ quyền lợi của chúng; chính sách văn hóa và giáo dục của chúng chỉ là một chính sách chuyên chế và ngu dân nhằm đàn áp tư tưởng và đào tạo ra một lũ nô lệ phục vụ quyền lực của chúng; hệ thống thông tin gian manh và tuyên truyền xảo trá của chúng đã lường gạt thế giới và đóng kín xã hội Việt Nam với thế giới bên ngoài khiến nhân dân không còn nhìn thấy sự tiến hóa của nhân loại,

3. Xét rằng chính sách xâm lăng của lũ thống trị phản quốc CSVN chống các nước láng giềng càng ngày càng bị dư luận thế giới kết án, và chúng càng ngày càng bị cô lập trong cộng đồng thế giới,

4. Xét rằng lũ thống trị phản quốc CSVN không đưa dân tộc tới một tương lai nào khác hơn là chiến tranh và đói khổ, nên cứu nước và xây dựng đất nước phải bắt đầu bằng việc lật đổ lũ thống trị đó,

5. Xét rằng kháng cự chống đàn áp và bóc lột là một quyền linh thiêng nhất của con người, và dân tộc Việt Nam nhất quyết hành xử quyền đó như một bổn phận đối với tổ quốc,

6. Xét rằng bổn phận kháng chiến giải phóng Việt Nam đã được tiến hành và lãnh đạo bởi Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam với Cương Lĩnh Chính Trị như một căn bản chỉ đạo đang được đồng bào trong và ngoài nước nhiệt liệt hưởng ứng,

7. Xét rằng Đại Hội Chính Nghĩa với những đại diện Việt Nam ở khắp nơi trên thế giới là một cơ hội trao đổi ý kiến, thảo luận và đúc kết những nhận định và nguyện vọng của đồng bào tỵ nạn tại hải ngoại đối với việc yểm trợ công cuộc kháng chiến đang do Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam lãnh đạo.

Đồng Tâm Quyết Nghị:

1. Cương quyết nâng cao chính nghĩa của công cuộc kháng chiến giải phóng Việt Nam do Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam lãnh đạo để thế giới hiểu rõ những mục tiêu cao cả của chúng ta về tự do, nhân quyền, nhân phẩm và hạnh phúc con người.

2. Mạnh dạn tố cáo trước dư luận thế giới thực chất bạo lực và thoái hóa của lũ thống trị phản quốc CSVN, tay sai của đế quốc Liên Xô và khẳng định với thực chất đó, CSVN không thể thay đổi, cải tiến hay thuần hóa được, cho nên giải pháp duy nhất để cứu vãn dân tộc là lật đổ chúng.

3. Thiết tha kêu gọi đồng bào đề cao cảnh giác để phá vỡ mọi âm mưu xuyên tạc, xâm nhập và phá hoại của CSVN và tay sai hải ngoại.

4. Tích cực củng cố tổ chức cơ sở nhằm nâng cao khả năng yểm trợ kháng chiến của cộng đồng người Việt tự do tại hải ngoại, đồng thời phá vỡ những âm mưu xuyên tạc phá hoại của CSVN và tay sai hải ngoại.
5. Nhất quyết học tập, nghiên cứu và phổ biến những đường hướng chỉ đạo công cuộc cứu nước và dựng nước, công bố trong Cương Lĩnh Chính Trị để xây dựng một nền tảng lập luận soi sáng những công tác yểm trợ kháng chiến tại hải ngoại.

6. Triệt để khai triển những ý kiến thu thập tại Đại Hội nhằm soạn thảo ra một kế hoạch yểm trợ kháng chiến đa năng và linh động, đặt trọng tâm vào các công tác kiều vận và ngoại vận.

7. Nỗ lực phát huy một nền văn hóa Việt Nam ngay tại hải ngoại để giữ gìn truyền thống và văn hóa dân tộc đang bị lũ thống trị phản quốc CSVN xóa bỏ.

8. Tích cực học tập và nghiên cứu Cương Lĩnh Chính Trị để chuẩn bị những giải pháp xây dựng xã hội Việt Nam trong tương lai.

9. Nhiệt thành xây dựng và củng cố tinh thần đại đoàn kết dân tộc để phát huy sức mạnh chiến đấu, biểu dương khí thế đồng tâm trước kẻ thù dân tộc là bè lũ thống trị phản quốc CSVN.

Làm tại Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ.
Ngày 30 tháng 4 năm 1983”

Dựng Cờ Chính Nghĩa

Cùng đồng bào ruột thịt trên toàn thế giới,

Người ta sinh ra ai cũng có tự do. Dân ta đã mất tự do, và bị đối xử như thú vật.

Quốc gia nào cũng có quyền tự chủ. Nước ta bị mất quyền đó khi nhân dân bị bóc lột, nhân tính bị xóa bỏ, truyền thống bị phủ nhận.

Dân tộc nào cũng có quyền kiêu hãnh về quê hương mình, tin tưởng ở tương lai mình. Dân ta cũng mất cả quyền đó. Hỏi quê hương ở đâu, ta chỉ về địa ngục ở đó. Hỏi tương lai ra sao, ta chỉ thấy hận thù và đói khổ, gian xảo và khốn cùng.

Còn gì khổ đau hơn cho chúng ta.

Xưa, ta có Phạm Ngũ Lão, ngồi đan sọt lo việc nước, dáo đâm thủng đùi không hay. Thế giặc quá mạnh, không lo sao được? Kỵ binh Nguyên Mông tràn lên như thác lũ, vỡ bờ Âu Á, vó trường chinh đạp nơi đâu, nơi đó cỏ không còn mọc. Chúng đang xầm xập đổ xuống biên thùy nước Nam, ai mà chẳng lo?

Vậy mà vẫn có người lo việc khác. Lo mẹo cờ bạc, tính thế chọi gà, nghĩ lợi riêng mà quên quốc nạn. Lời hịch của Hưng Đạo Vương còn vang truyền tới đời nay, ta há dám quên? Nhưng hẳn là những kẻ ham vui kia cũng biết rời canh bạc, bỏ độ gà, mà quay ra đối đầu với giặc. Nếu không, sử sách Việt Nam đã không có những trang gấm vóc rạng ngời như vậy.

Nếu cả nước lại vô tâm vui đùa, hoặc chăm chăm thu lợi mọn, len lén vơ chặt túi, ai là kẻ đoạt sáo bến Chương Dương, ai là người cầm Hồ cửa Hàm Tử?

Khi giặc đến, dân ta đã muôn người như một, đồng tâm chống giặc, từ tướng sĩ ở bến Bình Than cho tới phụ lão ở điện Diên Hồng. Ta đánh giặc dưới nước, ngoài đồng. Đánh giặc trong rừng, trên núi. Đánh giặc bằng gậy tre dáo sắt, đánh bằng thuyền nan xe cỏ. Đánh cho giặc tan tác bay, đánh cho giặc tơi tả chạy. Quân Nguyên có đứa bỏ mạng nghẹt sông, có đứa phơi thây ngập núi, có đứa vỡ mật kinh hồn, có đứa bưng tai khiếp vía. Đến như chủ tướng của chúng còn phải chui ống mà chạy mới bảo toàn được thân. Thiên tai đã giáng xuống đầu giặc, lan tới khắp vùng phương Bắc, nơi gà không còn tiếng gáy, nơi chó không còn dám sủa. Tất cả đều tĩnh lặng đến đinh tai nhức óc như sau một cơn động đất. Giặc rút chạy, trống trơn biên thùy đến mấy chục dặm. Sau đó bao năm, nghe đến tên Trần Đại Vương, "Sìn Tày Voòng", vẫn còn hồn xiêu phách lạc, ngực đập chân run.

Có khác chi quang cảnh sau trận Đông Quan, cuốn trời cuộn đất, âm thầm mà mãnh liệt của Lê Lợi, Nguyễn Trãi? Có khác chi năm ngày thịnh nộ sấm sét Quang Trung Hoàng Đế đã giáng xuống quân Thanh vào mùa Xuân Kỷ Dậu? Xuân đó, hoa đào đã đen thuốc súng, nhưng nở rộ trong lòng dân Nam.

Quê hương ta đấy. Lịch sử ta đấy.

Xưa, ta có Đào Nương, một ca kỹ vô danh, sau mỗi cuộc rượu gầy ra chuốc giặc lại lặng lẽ trói giặc say, từng đứa, bỏ vào bao tải mà đem ra sông trấn nước. Khi cần chống giặc, chị em chẳng cứ phải cưỡi voi xông trận. Nhưng phải cực kỳ can đảm mới dám đêm đêm làm việc tày trời đó. Là con cháu Trưng Triệu, nếu bà chỉ muốn mở sòng dựng rạp, tấu nhạc kiếm tiền, thì hẳn là bà cũng có vàng thoi từng bó. Và có lẽ cũng chẳng lưu hương thanh sử, làm thơm lây cho nghề ca hát cho tới đời nay.

Xưa, ta có Phan Thanh Giản, giữ đất không xong đành đem mạng sống tạ tội với triều đình. Triều đình thì nhu nhược, có tính gì ngoài kế cầu hòa? "Nay đòi đánh, mai đòi đánh, đánh không được, đặt trẫm nơi đâu?". Trẫm đây là Tự Đức, ông vua tài hoa đã phê trên tấu chương của các sĩ phu nhất định đánh, không chịu hàng. Không lo cho tương lai của xã tắc mà chỉ nghĩ đến chốn an thân cho riêng mình, Tự Đức không phải là minh quân. Cụ Phan bất lực còn có Phan Tôn, Phan Liêm thay cha cầm dáo chống giặc. Cha như vậy có con như vậy lại càng đáng quý. Ta còn có Nguyễn Tri Phương nhịn ăn chịu chết, Hoàng Diệu tuẫn tiết trên thành, trước sau mười năm gương nghĩa liệt vẫn chói lòa Hà Nội.

Quê hương ta đấy. Lịch sử ta đấy. Ai mà không thấy tự hào?

Cho hay, vận nước có lúc thăng lúc trầm, có lúc thịnh lúc suy, nhưng những bậc hiền tài trung liệt thì thời nào cũng có. Từ giới quần thoa cho đến bậc trượng phu, từ nơi quyền quý xuống tới hàng dân giả. Ta đã có người cầm kiếm vào cung, dựng lại thế cờ nghiêng đổ mà cứu lấy sơn hà. Ta đã có bậc thiền sư rời núi chống gậy vào triều mà bày thế an dân chống giặc. Ta đã có người xóa thù riêng mà cúi mình dâng kế an định bốn phương. Ta đã có người gác tình cha con, lặn lội vào tới Lam Sơn dâng Bình Ngô Sách. Ta đã có người xả thân cứu chúa vì đại nghĩa, có người công nhiên mắng giặc tới chết, có người rạch bụng vứt ruột vào mặt quân thù mà chết. Gần đây hơn, ta đã có người suốt đời bôn ba nơi hải ngoại vận động việc phục hưng cứu nước, có người ném bom giết giặc Pháp ở tận bên Tàu...

Dân ta không có những đền đài đồ sộ, những kiến trúc nguy nga làm thế giới phải khâm phục. Lăng miếu của ta đều thấp bé, khiêm nhường và kín đáo. Thành quách của ta cũng chẳng có gì là vĩ đại. Ta không chống giặc bằng thành cao, bằng hào sâu. Ta chống giặc bằng tình đoàn kết, bằng lòng yêu nước vô biên, bằng tim, bằng óc. Khi giặc tới, cờ lau kia cũng thành dáo nhọn, cát sỏi kia cũng thành tên cứng, khe rãnh hiền hòa kia cũng thành mồ chôn giặc. Dân ta không bao giờ chịu khuất phục, đó là giá trị ngàn đời của dòng giống Việt. Từ ngàn năm Bắc thuộc ta đã vùng ra đoạt quyền tự chủ, bằng những chiến công long trời lở đất. Ngần ấy năm Pháp thuộc là ngần ấy năm kháng Pháp. Từ Văn Thân tới Cần Vương, Đông Du... Từ rừng sâu Yên Thế tới mười tám thôn Vườn Trầu. Ta cho loài người một tấm guơng sáng về sự bất khuất, có giá trị trường cửu, có ý nghĩa nhân bản vượt xa những kỳ quan vô hồn của thế giới. Chí khí Việt còn dài hơn Vạn Lý Trường Thành, cao hơn Kim Tự Tháp, vươn tới trăng sao vòi vọi.

Quê hương ta đấy. Lịch sử ta đấy. Ai mà không thấy tự hào? Ai mà không kiêu hãnh?

Cho tới ngày hôm nay. Cho tới thế hệ chúng ta.

Lịch sử vừa ghi lại là đã có những người Việt Nam bỏ chạy. Nguyên do bởi vì đâu?

Có những nhà lãnh đạo đã vét chặt túi, vơ đầy nhà, mà một sợi tóc cho giang sơn cũng còn tiếc. Có những bậc tướng thạo bán buôn hơn trận mạc, coi binh lính như tôi tớ, coi nhân dân như cỏ rác. Có những bậc trí thức chỉ lo miếng đỉnh chung, chỉ tính kế đầu hàng. Có những lãnh tụ tài chưa đầy vốc, đức lại bạc như vôi, chỉ những lập bè vì lợi, lập thuyết vì danh, mong lọt vào mắt xanh, tìm cơ chấp chánh. Việc chống giặc như dầu sôi lửa bỏng, mà phần đông đều lạnh lẽo thờ ơ. Quân chống giặc thì đói nhiều hơn no, ngoảnh lại sau chỉ thấy toàn xa hoa bạc nhược.

Việc phải đến đã đến.

Quân ta vỡ hàng, rã ngũ. Dân ta mất nhà, tháo chạy, lếch thếch lang thang. Từ Quảng Trị chạy về, từ Pleiku chạy xuống. Chen nhau mà chạy, xớn xác cửa nhà, lạc cha mất vợ. Giặc chưa đánh đã chạy. Nghe đài phát thanh cũng chạy. Ôm lấy trực thăng mà chạy, đạp nhau trên phà mà chạy. Chạy đến mấy trăm cây số ngàn.
Sau đó là cảnh địa ngục kinh hoàng chưa từng thấy.

Người chen người lênh đênh giữa biển, vật vờ ngoài khơi. Rồi kêu gào thế giới, ở giữa thinh không và biển cả, ở giữa thờ ơ của nhân loại. Người Việt bị hất hủi chà đạp, bị xua đuổi từ đảo này qua đảo khác. Người Việt chết tức tưởi trong tù, chết nhục nhã trong trại nuôi thú vật. Người Việt chết âm thầm trên đại dương, bên ngòi ngoài rãnh. Chết không ai hay, chết không hương khói. Rồi người Việt run sợ lạy van cướp biển. Người Việt tuyệt vọng lao xuống nước.

Và cũng có người Việt quên Tổ, vui kiếm tiền trên đất khách, coi mình là khôn ngoan hơn cả.

Dân ta có sinh ra để chạy trốn, để van xin và bị nhục như vậy? Ta còn là người không mà chấp nhận điều đó?

Lịch sử cũng vừa ghi lại là dân tộc thực tiễn và trung dũng nhất nhì thế giới đã có những đứa con cuồng tín nhất, phản bội tổ quốc đến độ bất nhẫn nhất.

Chúng tố cha giết mẹ, quây trường học làm nhà tù, chẻ bàn thờ làm cùm kẹp. Chúng đầu độc con trẻ, hiếp đáp người già, dạy dân điều gian dối, coi dân ngang thú vật. Chúng mở cửa cho đế quốc đỏ thống trị giang sơn, rồi đạp dân ra biển, đuổi dân lên rừng, xua dân đi nô dịch ở phương xa tuyết lạnh, gom dân đi đánh thuê cho đế quốc vô thần. Chúng vơ vét bạc vàng dâng lên chủ, làm tan hoang ruộng vườn, gây điêu linh trăm họ. Chúng ép dân thờ xác khô, lạy quỷ sống, tôn vinh điều phi nghĩa, ngợi ca lẽ vô đạo. Chúng xâm lăng các nước láng giềng, gieo rắc kinh hoàng nơi đền đài tôn miếu. Chúng trắng trợn lường gạt thế giới và ngang nhiên nhục mạ tiên tổ. Chúng là lũ thống trị tàn ngược và điên bệnh nhất lịch sử. Sự ngu muội của chúng đã che mờ nhật nguyệt. Sự cuồng dại của chúng đã vượt quá cổ kim.

Những tên bạo chúa ghê tởm nhất của loài người có được lôi từ địa ngục lên thì cũng chỉ canh cửa thổi cơm cho chúng.

Thế giới đang phê phán chúng ta. Bỏ chạy là chúng ta. Bạo ngược là cộng sản.

Tổ tiên có nhìn xuống cũng phải ngậm ngùi tủi hổ. Ta cũng phải thấy nhục với tiền nhân, nếu còn biết nhìn lên.

Nhưng lịch sử đâu có ngưng nơi đây?

Con cháu những bậc tiền nhân anh kiệt có người ngửng lên, đã có người bước tới, đã có người hối lỗi quay về.

Ngọn cờ chính nghĩa đã được dựng lại.

Hôm nay, ở ngoài quê hương, đã có những cụ già đau đáu lo âu là mình trọng tuổi, không biết có kịp về không. Lo mà vẫn đứng dậy, vẫn xốc tới. Nơi đây đã có những người coi giàu sang như dép rách, rũ bỏ thú riêng, lìa xa phú quý mà lặn lội trở về. Để gặp những con người sắt thép năm năm lạnh lẽo trong rừng, để cùng tìm lại đường lớn cho dân tộc. Ta đã có những người đan sọt đánh cá buông lưới vứt lạt mà về. Đã có người rời bỏ cuộc vui mà quay lại, tìm đến. Đã có người học cụ Sào Nam, nửa đêm khép cửa ra đi, hy sinh cả mái ấm gia đình là cái duy nhất còn lại sau cuộc dâu biển vừa qua. Ra đi là để về với quê hương, với đồng bào. Đó là những người nhất quyết không chịu buông xuôi, đòi cưỡng lại áp lực loài quỷ dữ. Họ đã tìm về với dân tộc, xây dựng lại trận thế, nắm lấy tầm vông dáo mác, giật lấy súng đạn, đạp đổ cùm gông mà giải phóng quê hương... Họ đang chung sức cùng đồng bào lật đổ bạo quyền điên dại, đập nát tiền đồn phương Đông của đế quốc vô thần và xây dựng lại xứ sở, tô điểm lại giang sơn.

Lời thề phục quốc đã cất lên, ngay giữa rừng già. Câu hò kháng chiến đã lan xa, từ lòng đất nước. Tiếng gọi giải phóng đã vang dội, vỡ tan tù ngục, rung chuyển đất trời. Từ lục địa này qua lục địa khác. Từ đàn bà con trẻ tới thanh niên phụ lão. Nơi nào cũng có người quay lại, tuổi nào cũng có người bước tới, và gặp nhau rạng rỡ nụ cười, sáng ngời chính khí.

Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến đã nổi lên từ đấy.

Phong trào đã dấy lên ngay giữa xa hoa mệt mỏi Tây phương, thành sấm sét lay chuyển lòng người ở muôn nơi, gây phấn khởi cho người cứu nước ở quê nhà. Những thờ ơ đã bị chấn động. Những nghi hoặc đã được soi sáng. Những lo âu đã được trấn tĩnh. Gánh nặng canh cánh bên lòng đã được cất lên, để bùng ra một khí thế mới. Giữa vùng đen đặc của quê hương, ý chí chiến đấu đã thắp sáng hy vọng, xua đuổi những u tối của bạo lực, xóa mờ những lý lẽ của thỏa hiệp. Những cùm gông xiềng xích đang bị phá tung, giữa tiếng reo hò chát chúa của cả một dân tộc đã trở về truyền thống ngàn năm của mình.

Chúng ta không còn cô độc nữa. Điều anh lo nghĩ, ấp ủ trong lòng mà không dám nói ra sau bao thất vọng ê chề, sau bao phản phúc nhục nhã, điều đó, tôi cũng giữ trong tim. Niềm đau của thầy khi nghĩ đến đồng bào ruột thịt ở nhà cũng là nỗi thao thức trắng đêm của con. Chúng ta cùng một nòi giống cả. Chúng ta cùng một huyết thống cả. Cái lo của anh của chị, cái lo của bác của cháu, cái lo của mày của tao, cũng là cái lo chung của toàn thể dân tộc. Bây giờ ta mới gặp ta. Việc trở về đã thành điều có thể, đã thành điều chắc chắn, đã thành niềm tin sắt đá. Ý chí khôi phục quê hương cuồn cuộn chảy trong huyết quản chúng ta.

Đã có người đứng dậy, đã có người trở về. Hãy cùng đi tới đi. Hãy cùng gặp nhau đi. Hãy cùng chung sức đi. Hãy tìm đến anh em chiến hữu, cùng nhau học tập, mài dao cho sắc, luyện chí cho bền, để được cùng đồng bào và các chiến sĩ vĩnh viễn giải quyết vấn đề cộng sản trên quê hương, vĩnh viễn nối lại truyền thống bất diệt của tổ tiên. Ta sẽ đưa Việt Nam về ngôi vị vinh quang của một quốc gia văn minh và can trường, sáng suốt và nhân đạo.

Ta sẽ nắm tay nhau cùng trở về trước bàn thờ Quốc Tổ để minh chứng là người Việt ngày nay vẫn là người Việt muôn thuở.

Đại Hội Chính Nghĩa do Phong Trào tổ chức, ngay giữa thủ đô Hoa Kỳ, vào ba ngày 28, 29 và 30 tháng 4, 1983, là một biến cố lớn. Ngọn đuốc Diên Hồng đã truyền sáng đến thế hệ chúng ta. Hùng khí Lam Sơn đang rung chuyển từng đường gân thớ thịt trong ta. Hãy đứng dậy đi. Hãy bước tới đó. Đây là nơi gặp gỡ của những người không chịu mất nước: Ta chỉ mất nước khi từ chối chiến đấu, phủ nhận trách nhiệm với tiền nhân và hậu thế. Hãy quên đi những bất đồng đã qua. Hãy xóa bỏ những hoài nghi đã có. Muôn người như một, chúng ta cùng tiến tới, vươn lên, nối dài chính nghĩa từ đời xưa tới đời sau.

Đồng bào ơi, hãy trở lại đấu tranh cho quyền làm người, quyền tự do, quyền thương yêu của dân tộc.

Đồng bào ơi, hãy xứng đáng là người Việt, tìm thấy niềm tự hào, niềm kiêu hãnh của nguời Việt.

Đồng bào ruột thịt trên toàn thế giới.

Khí thiêng sông núi không bao giờ tắt trong lòng người dân Việt. Lịch sử Việt Nam không thể để cho cộng sản làm nên và để lại cho hậu thế. Hãy vùng lên, cướp lấy súng, giằng lấy bút mà viết lại những trang sử vẻ vang cho giống nòi.

Chúng ta vẫn là người Việt Nam bất diệt.
(Đại Hội Chính Nghĩa)


"Giữa thiên đường quỷ đỏ:
Người còn bàn tay không;
Tương lai thành cổ mộ;
Cuộc đời trôi rêu rong!
Bạn người xứ sông Hồng,
Anh bản mường Đắc Lắc;
Em gái miền Cửu Long;
Vai chen vai diệt giặc.
Sương lam chiều giăng mắc,
Gió ngàn ca vi vu;
Lửa hồng reo tí tách;
Ta say đời chiến khu.
Hôm nay người gian khổ,
Ngày mai đời bình minh;
Tương lai lên rực rỡ;
Đất nước vui thanh bình"
(Nguyễn Lộng Sơn - Chiến Đấu)

Rõ ràng:

Đại Hội Chính Nghĩa là cao điểm vui mừng của cả nụ cười lẫn nước mắt.

Đại Hội Chính Nghĩa là cao điểm hy vọng có ngày gặp lại Sài Gòn.

Đại Hội Chính Nghĩa là cao điểm tinh thần quật khởi của đồng bào ta.

Đại Hội Chính Nghĩa là cao điểm tiếp cận với một vận hội mới.

Bối cảnh thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam

Công cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống lại ách thống trị của cộng sản đã khởi sự từ thập niên 1950s và 1960s ở miền Bắc (Cao Dương - Cuộc khởi nghĩa chống cấm đạo - Ba Làng-Thanh Hóa – 1955; Lê Liễu - Mặt Trận Tiền Phong Cộng Hòa Bắc Việt – Thanh Nghệ Tĩnh – 1960; Phùng Văn Cảnh - Phong trào Nông Dân Khởi Nghĩa - Đường Lâm-Sơn Tây – 1960; Nguyễn Văn Phượng - Tân Phong Cần Mệnh Hội - Hà Nam – 1962...).

Lễ công bố Cương Lĩnh Chính Trị của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam tại khu chiến ngày 8-3-1982
Và kể từ ngày đầu tháng 5 năm 1975, trên cả hai miền, khi CS Việt Nam cưỡng chiếm miền Nam và đặt ách thống trị trên toàn cõi Việt Nam. Nhưng vào giai đoạn đó, các hoạt động này có tầm vóc nhỏ dưới hình thức các tổ kháng cự, ít nhân sự, ít vũ khí, thiếu phương tiện liên lạc, quan trọng nhất là thiếu đường lối đấu tranh đường dài. Phần lớn những con người bất khuất đi vào bưng sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, trước tiên và đơn thuần chỉ là để chống đối sự kiểm soát và khủng bố của bạo quyền.

Khi bạo quyền Cộng sản Việt Nam đã ổn định được guồng máy cai trị và hệ thống kiểm soát tại thành phố, chúng áp dụng chính sách bưng bít thông tin, ngăn cấm di chuyển, bao vây lương thực và khủng bố tinh thần nhân dân... Những chính sách độc ác dã man đó đã khiến cho người dân hai miền đều chỉ phải lo miếng ăn từng bữa, và vô hình chung, các nỗ lực kháng cự bị cô lập. Tiếp sau đó, bạo quyền Cộng sản Việt Nam ra sức truy lùng, xâm nhập, và dùng chiêu bài kháng chiến giả để càn quét, tiêu diệt kháng chiến thật.

Tại hải ngoại, trong số những người ra đi cũng không thiếu người vẫn ra sức đấu tranh, nhưng cũng gặp phải nhiều giới hạn: Vấn đề sinh kế của những ngày đầu mới tới đất lạ quê người; sự cám dỗ vật chất của một đời sống đầy đủ tiện nghi; thời khóa biểu học hành hay làm việc chiếm trọn thì giờ; tinh thần hoài nghi hay mặc cảm thua trận.... Một số người vượt qua được những trở ngại đó để tiến hành đấu tranh. Tuy nhiên, phần lớn các nỗ lực này chỉ tập trung vào việc tố cộng hơn là chống cộng, hoặc chỉ tìm cách vận động quốc tế can thiệp để trả lại nước Việt cho người Việt, trong lúc thế giới chưa hết mặc cảm về cuộc chiến Việt Nam, và chỉ đang loay hoay với vấn đề thuyền nhân Việt Nam tỵ nạn chứ chưa phải là vấn đề "giành lại tự do cho người Việt". Điều này kéo dài sau một vài năm thì hải ngoại mất động lượng, các hình thức tố cộng trở thành thủ tục ghi nhớ và tưởng tiếc hơn là nhắm vào mục tiêu chấm dứt nạn độc tài thống trị trên đất nước mình.

Tình trạng đấu tranh rời rạc và thiếu đường lối của cả quốc nội lẫn hải ngoại như trên trong nhiều năm, càng kéo dài càng bất lợi cho người trong nước. Các ổ kháng cự bị cô lập và tiêu diệt dần. Các ổ kháng cự còn lại vẫn chưa có được nguồn tiếp vận phương tiện và nhân sự mới, trong khi vẫn chưa có một đường lối khả dụng, một kết hợp ngoạn mục, hay tạo được một động lượng để huy động sự tiếp trợ của hải ngoại. Kháng chiến quốc nội gần như đứng sát bờ tuyệt vọng của bế tắc.

"Sẽ có lúc rừng sâu bừng chuyển động
Những hùm thiêng cựa móng thét rung trời
Và sông núi sẽ vươn mình trổi dậy
Và cờ bay trên đất nước xinh tươi"

(Cao Tần - Sẽ Có Lúc)

Nhiều người trong các ổ kháng cự đó đã chôn dấu vũ khí, tìm đường vượt biên hay tìm cách liên lạc với hải ngoại. Nhiều người từ hải ngoại cũng tìm cách xâm nhập trở về để bắt tay phối hợp hoạt động với người trong nước. Họ là những người dấn bước đầu tiên tiến đến việc thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam.

Vượt qua rất nhiều khó khăn, những liên lạc và tiếp xúc sơ khởi ban đầu đã tạo nên thành quả và dần dần định hình thành một kế hoạch thống nhất các lực lượng lẻ tẻ thành một Mặt Trận vào những năm cuối của thập niên 1970. Chuyển đổi hình thái đấu tranh tự vệ thành đấu tranh giải phóng. Chiến sĩ là nhân dân – Nhân dân là chiến sĩ. Chấm dứt ý niệm du kích chiến bằng đấu tranh vận dụng. Thay thế sức mạnh nòng súng bằng sức mạnh con tim. Công tâm thay công thành. Địch vận song song với dân vận và kiều vận. Làm suy yếu địch để phát triển sức mạnh kháng chiến. Trường kỳ đấu tranh cho tới ngày giải phóng đất nước. Xóa sổ quan niệm chiến tranh ủy nhiệm bằng sự chủ động tự lực tiến hành đấu tranh. Không chờ đợi thế giới bật đèn, chỉ vận động thế giới hợp tác. Người Việt Nam phải giải quyết vấn đề Việt Nam trước khi kêu gọi thế giới hỗ trợ. Huy động tổng lực đoàn kết toàn dân thành lực đối trọng với Cộng Sản Việt Nam. Phải dồn bạo quyền vào thế đối đầu với toàn thể nhân dân Việt Nam.
Chiến hữu Hoàng Cơ Minh trong một
cuộc họp báo tại Tokyo năm 1985

Ôi quê hương chúng ta!
lịch sử còn ghi đậm những ngày nhục nhã
ai để đất này cho bầy cầm thú?
chúng xiết cổ người, đào bới mả ông cha
ai đã lăn thân trong những ngày bom rơi đạn nã
những xác anh em nào phơi trên lũy, dưới hào
cho em có những con đường ngập nắng
cho anh còn những chiều thơm khói thuốc, cà phê
hàng triệu người đứt ruột xa quê
sao đành tâm chạy trốn cả chút lương tâm mẹ nuôi cha mớm?

Ôi quê hương chúng ta!
đứa con gái đi thâu tiền chiếu vào buổi sớm
chiếc chiếu ẩm buồn sương lạnh suốt đêm qua
anh cũng như em cũng chẳng có nhà
con dốc Gia Long mới sáng mà mưa quá
cuộc đời còn độc hơn những thứ rượu cồn anh uống vùi tối qua

Ôi quê hương chúng ta!
đứa trẻ bên kia ngồi thu mình buồn bã
giọt mưa gõ đều bên hiên nhà lạ
tuổi nhỏ cuộn tròn buồn thiu

Ôi quê hương chúng ta!
những bức thư chồng gửi về mong quà thăm nuôi
những bức thư dài như tờ sớ
em cắn răng giở tôn gian nhà bếp
đêm có tiếng dế kêu sầu qua liếp
tuổi xuân em trôi theo gió ngoài thềm

Ôi quê hương chúng ta!
những chuyến hàng chở lậu về đêm
những chân người đuổi theo rất gấp
họ vẫn chạy miết về phía Bình Dương
có tiếng súng nổ, có tiếng người ơi ới
nhịp điệu quen đều như nhịp võng đưa em

Ôi quê hương chúng ta!
anh phải chỉ cho em
những con đường không được đi vào buổi tối
những con đường tránh đi vào buổi trưa
ở mỗi góc hè là một phục chờ
của những con người tay không biến thành kẻ cướp

Ôi quê hương chúng ta!
phải kể đến bao giờ cho hết
hôm nay chúng ta bịt tai, bịt mắt sống bình yên
thịt xương này mẹ đã chắt chiu nuôi bằng nước mắt
từ thuở quấn tang chồng
hình hài này cha đã ấp ủ qua thời chiến tranh gay gắt
ngày đạn réo trên không

Ôi anh em chúng ta!
hôm nay chúng ta còn mở to miệng cãi vã
hội đoàn này phỉ báng hội đoàn kia
em vẫn chợt tỉnh giữa giấc mơ mướt mồ hôi đầm đìa
những hố chôn tập thể có xác mẹ xác cha
hãy nói với em rằng tuổi trẻ
không chỉ quay cuồng điệu luân vũ mỗi weekend
hãy đến nhập giòng những người áo đen,
những người áo nâu trùng trùng xuống phố

Ôi anh em chúng ta!
những tai nấm độc sẽ mọc hoang trên ngờ vực
hãy đến cùng nhau góp củi thành rừng
làm sợi dây leo xanh quấn quanh những người buồn bã
đi cùng em giữa những điên cuồng đập phá
hát vào tai nhau ơn nghĩa của mẹ cha

Vì quê hương chúng ta!
bàn tay em còn chờ anh nắm
cho ấm lòng cùng giọt máu màu da
cho ngày trở về sẽ không xa
để em hôn lên tóc mẹ đã bạc màu mưa nắng
mẹ ơi! đừng khóc nữa
kháng chiến quân đã về tới quê nhà
chị ơi! đừng buồn nữa
theo quân về phá những nhà giam
em vẫn khao khát những con đường quê hương ngập nắng
anh vẫn mơ ngày cờ Vàng lồng lộng trên đường vào thành phố
anh có nghe được không
những mắt người chờ đợi long lanh
hãy đến nhập giòng những người đấu tranh
bàn tay em vẫn chờ anh nắm...

(Hương Giang – Vì Quê Hưong Chúng Ta)

---- oOo ----

Ý Niệm Mới Về "Đạo Quân Cách Mạng"

(Trích một phần nội dung phỏng vấn KCQ Đặng Quốc Hiền, 30-4-1984)

Chiến hữu Đặng Quốc Hiền trong buổi lễ bế mạc giai đoạn Đông Tiến, năm 1983
Hỏi: Xin chiến hữu so sánh sự khác biệt nếp sống của đồng bào hải ngoại với nếp sống đồng bào quốc nội và KCQ?

Đáp: Thật khó diễn tả. Suy tư thì giống nhau vì cùng hướng về mục tiêu giải phóng đất nước. Sự khác biệt có lẽ chỉ ở môi trường Sống & Đấu tranh: Đồng bào QN và KCQ sống cho cuộc đấu tranh 100%. Ngoài này còn có những ràng buộc khác chăng?

Hỏi: Xin chiến hữu cho biết cảm tưởng lần đầu đặt chân lên chiến khu?

Đáp: Ồ. Tổ quốc có thể còn xa ở phía trước, nhưng riêng tôi coi như tôi được giải phóng hoàn toàn. Anh em cùng xé giấy tờ. Một ngày hát quốc ca chào cờ 2 lần. Chưa có cột cờ thì cầm cờ trong tay.

Hỏi: Chiến hữu nghĩ thế nào về hai chữ cách mạng trong "Đạo quân cách mạng"?

Đáp: Từ cha sinh mẹ đẻ, tôi chưa đấu tranh cách mạng cho tới khi tôi gia nhập Mặt Trận. Tôi hiểu hai chữ cách mạng một cách giản dị: Chúng ta đi xây dựng một giá trị mới. Để làm việc đó, chúng ta đạp đổ những gì xấu xa, giữ lại cái gì tốt đẹp, để từ đó, chúng ta xây dựng một cái gì mới hơn, tốt đẹp hơn, giá trị hơn.

Hỏi: Thế nào là một KCQ, thưa chiến hữu?

Đáp: Đầu tiên là phải thoát ly, là một người phục vụ hoàn toàn cho lý tưởng đấu tranh giải phóng tổ quốc. Khi nói tới người lính, người ta nghĩ đến vũ khí để bắn địch. Khi nói đến KCQ thì cái ý niệm diệt địch bằng súng, tức là chuyện bóp cò, không phải là chính yếu. Vũ khí chỉ là phương tiện để KCQ tự vệ. Công tác của KCQ là làm sao vận động để địch về với ta. Các anh em KCQ có một câu hỏi: "Khi nào thì KCQ bị giết?". Câu trả lời là: "KCQ bị giết khi không đắc nhân tâm". Tức là, khi anh không được lòng dân, không được nhân dân hướng dẫn, che chở, bảo vệ, anh sẽ bị giết.

Hỏi: Xin chiến hữu mô tả những hoạt động của Lực Lượng Võ Trang Kháng Chiến?

Đáp: Lực Lượng Võ Trang Kháng Chiến có nhiệm vụ đi vào dân để xây dựng cơ sở rồi từ đó, kêu gọi, vận động đồng bào, giải thích cho đồng bào hiểu rõ đường lối đấu tranh giải phóng của Mặt Trận để đồng bào cùng tham gia kháng chiến. Tất cả là làm sao để toàn thể nhân dân cùng chiến đấu để đi tới cao điểm chót của cuộc đấu tranh là Tổng Nổi Dậy. Lực Lượng Võ Trang Kháng Chiến có nhiệm vụ châm ngòi và bảo vệ cuộc Tổng Nổi Dậy. Muốn như vậy thì các cán bộ trụ, các KCQ đều phải nắm vững vai trò của mình, vừa chiến đấu vừa lo công tác tuyên vận, nhưng nặng về tuyên vận hơn, để mời gọi đồng bào đứng vào hàng ngũ kháng chiến. Lực Lượng Võ Trang Kháng Chiến không nhắm mục tiêu tập họp cả ngàn người vào các doanh trại. Lực Lượng Võ Trang Kháng Chiến là những người sống trong dân, trong bờ trong bụi cạnh dân, chia xẻ ngọt bùi cay đắng với dân. Lực Lượng Võ Trang Kháng Chiến khác với một đội quân nhà nghề có trả lương. KCQ vốn dĩ không phải là lính.

Hỏi: Đã có những thắc mắc về chiến khu. Chiến hữu có thể nói rõ về vấn đề này?

Đáp: Trong cuộc đấu tranh giải phóng tổ quốc của chúng ta hiện nay, dân là gốc. Dân bị ép, dân đứng lên. Dân đứng lên với nhiều hình thức. Có những hình thức mặc áo đẹp đi vận động. Có hình thức đi cày góp gạo. Có hình thức cầm súng. KCQ bây giờ không có lương, không được cấp phát quân trang, có khi không được cấp phát súng đạn nữa. Hãy lấy thí dụ một toán của Lực Lượng Võ Trang Kháng Chiến móc nối được với một nhóm người. Công tác huấn luyện nhóm người mới này để họ trở thành KCQ có thể diễn ra dưới nhiều hình thức và ở những chỗ khác nhau. Công tác huấn luyện rất khó khăn vì ở Việt Nam hiện nay nhà tù nhiều hơn trường học. Như vậy, chiến khu là nơi xảy ra các vụ tuyên vận móc nối hay các nơi huấn luyện, nên có thể là một bờ kinh, một góc vườn, một con đò giữa sông, ở dưới một tán bần hay cạnh một gốc dừa... Có thể nói không ngoa rằng chiến khu là ở trong lòng mọi người dân. Còn nếu quan niệm chiến khu là một doanh trại nhà cửa khang trang, với đây là chỗ ngủ, kia là phòng ăn, sân tập họp, bãi bắn... thì chúng ta không có chiến khu.

Hỏi: Đối với những người từ bên kia trở về, chúng ta có gặp trở ngại gì không?

Đáp: Không. Cho tới nay thì chưa. Chiến hữu sợ rằng Việt cộng gài người? Chưa có. Chiến hữu sợ Việt cộng trá hàng? Chưa có.

Hỏi: Vấn đề tư tưởng của họ ra sao?

Đáp: Tất cả mọi KCQ đều được đối xử bình đẳng và nếu hoàn cảnh thuận tiện thì việc huấn luyện đồng đều. Có một lệnh rõ ràng là các KCQ không nói chuyện đời tư, hỏi chuyện đời tư của nhau. Tuyệt đối không phân biệt quá khứ VC hay VNCH, quốc nội hay hải ngoại. Cái chuyện đời xưa nhiều rắc rối lắm. Nay chúng ta tất cả là KCQ của dân tộc Việt Nam chiến đấu vì dân tộc Việt Nam. Đừng nghĩ rằng hễ không nói chuyện đời tư thì sẽ không thoải mái. Không, đời sống của KCQ thoải mái lắm. Có một trường hợp đặc thù đã xảy ra: Một KCQ là cựu trung úy quân đội VNCH từng bị tù cải tạo. Một KCQ khác là cựu cán binh VC coi trại tù. Hai người này do ngẫu nhiên được đưa về cùng một đơn vị và họ nhận ra nhau. Không khéo là hỏng cả. Nhưng hai chiến hữu này đã sát cánh bên nhau vì họ cùng đi giải phóng tổ quốc.

Hỏi: Chiến hữu đã nói tới xâm nhập và móc nối. Chiến hữu có thể kể một chuyện trong đó có sự tham gia của người dân?

Đáp: Tôi có thể kể 2 chuyện và sở dĩ tôi biết được là vì lúc đó tôi có mặt ở gần đó. Đoàn VTKC xâm nhập vào 1 làng. Độ 1 tuần sau anh em dẫn ra 1 gia đình 17 người. Người già nhất là ông nội, 72 tuổi, người nhỏ nhất là em bé 12 tuổi. Gia đình này gồm 6 phụ nữ, 11 đàn ông và họ có 1 khẩu Garant thì phải. Họ hướng dẫn đoàn VTKC đi công tác và sau đó đòi theo luôn. Họ nói không cho họ theo Mặt Trận thì họ sẽ tự tử cả nhà. Tôi không mấy vui về chuyện này. Trên nguyên tắc gia đình đó phải ở lại làm một viên men để đánh dậy cả thùng bột là làng xóm đó. Nay viên men bị bốc đi thì tiến trình gây men phải làm lại từ đầu. Vụ thứ hai là 1 gia đình vợ chồng hai đứa con sau khi giúp đỡ KCQ đã nhất định đi theo Mặt Trận.

Hỏi: Tỷ lệ phụ nữ trong hàng ngũ KCQ là bao nhiêu, thưa chiến hữu?

Đáp: Tôi nghĩ là không cao lắm, chỉ độ 7 hay 8%.

Hỏi: Nếu lấy mũi Cà Mau làm chuẩn thì hoạt động xa nhất của KCQ là ở đâu?

Đáp: Rải cùng hết. Nhưng có lẽ không thể đưa ra một lối xác nhận chính xác cho câu hỏi đó. Lấy thí dụ như từ Cà Mau lên Cần Thơ không có, nhưng Cần Thơ thì có. Từ Cần Thơ lên Sài Gòn không có nhưng quanh Sài Gòn thì nhiều. Từ Sài Gòn lên Đà Lạt không có, sẽ không có nghĩa là Kontum hay ngược ra biển Đà Nẵng không có. Tức là rải cùng hết, như kiểu da beo vậy.

Hỏi: Chúng ta có bị thiếu vũ khí?

Đáp: Đương nhiên là chúng ta thiếu vũ khí.

Hỏi: Có trầm trọng không?

Đáp: Có cũng đúng, mà không có cũng đúng. Nếu nói trầm trọng có nghĩa là chúng ta nệ vào vũ khí, nghĩ tới ngón tay bóp cò mà quên cái đầu của ta. Nếu có vũ khí tốt mà không vững tinh thần thì cũng quăng vũ khí mà chạy thôi. Chúng ta không xây dựng một đạo quân như vậy. Còn tất nhiên là chúng ta thiếu vũ khí.

Hỏi: Các KCQ có được trang bị vũ khí cộng đồng không?

Đáp: Tùy theo nhu cầu công tác. Nói chung là các đơn vị giữ trách nhiệm phòng thủ có nhiều hơn.

Hỏi: Lương thực của KCQ do ai cung cấp?

Đáp: Họ sẽ phải tự kiếm lấy. Thí dụ khi xuất phát mỗi anh em có 10 ca gạo cho chuyến công tác. Nếu hết thì phải tự túc cho tới khi xong công tác. Nếu gặp các toán khác họ có thể được chia xẻ. Nếu không thì phải xin đồng bào. Theo đúng quan niệm đấu tranh thì KCQ sẽ được dân nuôi dưỡng, nhưng đồng bào ta đang sống dưới sự đàn áp cực kỳ dã man của bạo quyền nên cũng rất đói khổ. Gay go lắm.

Hỏi: Yểm Trợ Kháng Chiến có đóng góp được phần nào cho nhu cầu quốc nội?

Đáp: Anh em KCQ không dám trông đợi hay đòi hỏi gì nơi đồng bào hải ngoại. Tuy nhiên, tôi và toàn thể KCQ thuộc Lực Lượng Võ Trang Kháng Chiến vô cùng cảm kích về những công việc của Phong Trào QGYTKC. Tôi kính trọng sự kiên cường của cụ Chủ Tịch Phong Trào. Vì thời gian không cho phép tôi được đi thăm tất cả mọi người, nên xin nhờ báo Kháng Chiến chuyển lời vấn an đến quý vị trong phong trào. Tôi cũng đã nhờ cụ Chủ Tịch Phong Trào chuyển lời vấn an này... Tôi thực sự xúc động trước hình ảnh của những vị bô lão như cụ Trần Hữu Phúc bôn ba vất vả lo toan việc nước, lo yểm trợ kháng chiến. Đó là gương sáng cho tất cả chúng ta.

"Bởi có đi qua truông qua núi
mới thấy đường Đông Tiến gian nan
Mới nghe tim mình bâng khuâng nhịp đập
lúc trở sâu vào nội địa bước chân

Đã gang thép tâm tình kháng chiến
dẫu đường đi đầy mìn bẫy hầm chông
Khi lòng dân là triều dâng vũ bão
sẽ bứt được xiềng sẽ phá được gông

Bởi có đi mới thương dân manh lệ
cày thay trâu bò sống kiếp nông nô
Mới khao khát một ngày giải phóng
ngày Việt Nam quang phục cơ đồ

Đã nổi trống giương cờ chính nghĩa
tin hân hoan người nhập giòng người
Trong đấu tranh hòa bình là ước vọng
sẽ không còn ngày súng nổ thây rơi

Bởi có đi mới thấy lòng rung động
nhìn những bông lúa nuôi lớn bưng biền
Mới thấy được ý chí bất khuất
thiếu súng đánh bằng dao mác cung tên

Mỗi người về mỗi linh hồn dũng sĩ
mỗi quyết tâm đi giết lũ thuồng luồng
Lớp lớp can trường mới nên đại cuộc
mới có ngày chiếm lại quê hương"

(Bắc Phong – Bài Thơ Đông Tiến)

---- oOo ----

Trong Và Ngoài Khu Chiến Đều Có Kháng Chiến

(Những trích đoạn từ bài trình bày của chiến hữu Đặng Quốc Hiền – 30-4-1984)

Chiến hữu Đặng Quốc Hiền trong một sinh hoạt tại khu chiến
"... Ngày hôm nay, trước hội trường đông đảo và nồng ấm tình đồng bào, tôi lại được thấy bừng bừng khí thế đấu tranh của hải ngoại.... Tôi đặc biệt xúc động về ý nghĩa của buổi đại hội hôm nay, khi đại hội mang tên là 'Ngày toàn dân kháng chiến'.

Hằng năm, cứ đến dịp 30 tháng Tư, chúng ta lại uất hận nhớ đến tháng Tư đen tối năm xưa, cách đây tròn chín năm. Ta gọi đó là 'Ngày Quốc Hận' mà có khi không nhớ rằng ngay từ lúc đó, chúng ta đã có những con người kiên cường và bất khuất đi vào bóng tối, lập trận thế và tiếp tục kháng chiến. Đó là những kháng chiến quân đầu tiên của chúng ta. Đối với những người cương quyết chiến đấu, 30 tháng 4 đã là 'Ngày Quốc Kháng'.... Trong bóng đêm vây bủa của kẻ thù, những người Việt Nam anh hùng đó đã thắp sáng lên tinh thần Quốc Kháng của Việt Nam.

Tôi đã gặp những người Việt Nam anh hùng đó trong khu chiến. Và tôi cũng đã nhiều lần kính cẩn nghiêng mình trước mộ phần của những người đã anh dũng nằm xuống để giành lại quyền sống cho Dân Tộc.

Chính những nỗ lực đấu tranh âm thầm trong bóng tối, chính nhu cầu thống hợp các tổ chức kháng chiến thành một lực lượng xung kích sắt thép phá tung lưới thù và chính nguyện vọng giải phóng Tổ Quốc đã thúc đẩy sự thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam.

Từ tình trạng đấu tranh đơn lẻ, kháng chiến Việt Nam đã tiến lên trận thế toàn diện, với sự góp công góp sức của toàn thể mọi người. Khí thế đấu tranh đã lan rộng khắp nơi trong nước và khắp năm châu hải ngoại. Nơi nào có người Việt, nơi đó có đấu tranh cho Tổ Quốc Việt. Tùy khả năng, hoàn cảnh và điều kiện của mỗi người, toàn dân Việt Nam đã đứng dậy tham gia kháng chiến.

Như vậy, ở trong và ngoài khu chiến đều có người kháng chiến, và ở trong hay ngoài nước đều có người đấu tranh. Chúng ta không than khóc trên những đổ vỡ đã qua mà đã đi vào chiến đấu với niềm tin là từ khi phất cờ khởi nghĩa từ ngày 8 tháng 3 năm 1982, ta đã tiến lên 'Ngày Toàn Dân Kháng Chiến' hôm nay...".

"Cái Lúa ở với nước non
Non nước không còn Lúa ở với ai
Thù nhà nợ nước đôi vai
Lúa vô bưng quyết chờ mai rửa thù
Cái Lúa ở với chiến khu
Chớp con mắt đã chín thu trên rừng
Lúa bất khuất, Lúa anh hùng
Lúa như con gái lẫy lừng tiếng ca
Cái Lúa ở với mặn mà
Lúa vui ở vậy đậm đà nuôi quân
Lúa mơ một sáng mùa Xuân
Cùng Phục Quốc mở đường dân trở về
Cái Lúa ở với câu thề
Trổ bông cho thắm tình quê ngọt ngào
Bài ca dao Lúa rì rào
Lúa vui ở với đồng bào, quê hương"

(Phan Ni Tấn – Cái Lúa Ở Bưng)

---- oOo ----

Cái gốc của kháng chiến Việt Nam là nhân dân Việt Nam

(Những trích đoạn từ bài trình bày của chiến hữu Đặng Quốc Hiền – 30-4-1984)

"...Xin đồng bào hãy mường tượng ra khung cảnh đấu tranh của chúng ta ở trong nước.

Từ khi bạo quyền thống trị trên toàn lãnh thổ và tuyên chiến cùng toàn thể nhân dân Việt Nam, chúng đã thẳng tay bóc lột đồng bào, bủa lưới vây hãm toàn dân, trấn áp từng thôn xóm, từng khu phố, từng gia đình. Chúng giam giữ anh em và thân nhân của chúng ta để làm con tin ép buộc đồng bào. Chúng làm cho mọi người đều nghèo túng, bần cùng hơn, để hàng ngày kiểm soát và đầu độc trí não con người.

Trong những điều kiện đó, các kháng chiến quân đều ý thức được là mình không thể trông đợi sẽ có súng nhiều, gạo đủ, chuyển vận dễ dàng. Đồng bào ăn không đủ no, việc tiếp tế cho kháng chiến quân không thể dồi dào như lòng đồng bào mong muốn thì kháng chiến quân phải hy sinh chia sẻ và sáng tạo khai thác phương tiện có trong tay để vượt qua thiếu thốn. Đồng bào bị trấn áp và kiểm soát hàng ngày nên việc đấu tranh và tiếp sức kháng chiến không thể được tiến hành một cách ồ ạt như ý đồng bào trông đợi, thì kháng chiến quân phải sáng tạo vận dụng thiên nhiên thành võ khí, lấy súng địch làm khí giới, lấy mưu trí làm sức mạnh.

Những điều này nói lên tất cả những hy sinh và sáng tạo của kháng chiến Việt Nam trong những bước đầu non yếu đó. Vừa chiến đấu vừa sáng tạo, chúng ta đã xây dựng được một nền tảng vững chắc cho công cuộc trường kỳ kháng chiến.

Buớc vào giai đoạn đấu tranh Đông Tiến, kháng chiến Việt Nam đã có một khí thế mới. Tôi muốn nói đến sự hỗ trợ tinh thần và vật chất của đồng bào tỵ nạn, trong đó có phần đóng góp cao quý của đồng bào thân mến đang hiện diện nơi đây.

Chủ trương của chúng ta trước sau vẫn là 'Lấy sức mình là chính, sức người là phụ' và trong thực tế chúng ta đã làm đúng như chúng ta chủ trương. Chủ trương này, từ đường lối vạch rõ trong Cương Lĩnh Chính Trị là 'Lấy sức mạnh dân tộc làm căn bản. Lấy tinh thần đại đoàn kết toàn dân làm vũ khí'. Đây không phải là một khẩu hiệu, mà là một quan niệm đấu tranh thực tế, sáng suốt và hào hùng của dân tộc Việt Nam.

Các kháng chiến quân trong nước, trong đó có rất nhiều người là cựu quân nhân, đã biết rất rõ là chỉ có nhân dân Việt Nam và sức mạnh Việt Nam mới bảo vệ được Tổ Quốc Việt Nam một cách vững chải, bền bỉ và liên tục. Chỉ có người Việt Nam mới không cột tay tước súng chiến sĩ Việt Nam và trao sinh mệnh Việt Nam cho kẻ thù. Như vậy, lực lượng kháng chiến Việt Nam phải từ nhân dân Việt Nam mà ra. Và nỗ lực yểm trợ kháng chiến của đồng bào hải ngoại là một biểu hiện của tinh thần đấu tranh tự trọng và sáng suốt của dân tộc Việt Nam.

Vì ý thức như vậy, các kháng chiến quân trong nước đã chấp nhận rất nhiều gian khổ và thiếu thốn trong suốt giai đoạn đấu tranh Đông Tiến vừa qua. Trong gian khổ và thiếu thốn đó, các đoàn quân kháng chiến đã dần dần mở địa bàn hoạt động sâu rộng hơn tại khắp nơi, tiếp xúc với đồng bào thường xuyên hơn. Và cũng trong hoàn cảnh thiếu thốn đó, chúng ta đã đón nhận những tổ chức kháng chiến từ khắp nơi để cùng sát cánh chiến đấu trong một trận tuyến chung. Điều đó nói lên tinh thần hy sinh, kiên trì chiến đấu và đoàn kết của các kháng chiến quân trong nước.

Sau hơn hai năm tiến hành đấu tranh với duy nhất những phương tiện của nhân dân Việt Nam ở trong và ngoài nước, chúng ta đã hoàn tất được giai đoạn đấu tranh Đông Tiến bằng một thắng lợi mà ngày hôm nay thế giới đang nói tới, đang nghe thấy. Đó là đài Việt Nam Kháng Chiến. Tất cả những thành công vô cùng khích lệ đó đều có được là nhờ ở sự kiên trì đấu tranh và nỗ lực yểm trợ của mỗi người trong chúng ta.

Do đó, nói đến kháng chiến Việt Nam có nghĩa là nói đến kháng chiến của toàn dân. Nói tới đài Việt Nam Kháng Chiến, ta phải nói đến yểm trợ kháng chiến. Cái gốc của kháng chiến Việt Nam là nhân dân Việt Nam. Chỗ tựa của kháng chiến Việt Nam là nhân dân Việt Nam.

Tôi muốn nhấn mạnh đến điều đó vì người ta dường như vẫn chưa lường được sự phấn đấu của người Việt. Và cứ mỗi khi nghe nói đến những thành quả của kháng chiến là dường như người ta lại tìm hiểu xem có cường quốc nào giúp đỡ ở đàng sau không. Cho đến ngày hôm nay, thế giới lại hiểu lầm về Việt Nam nữa.

Tôi cũng lại xin nhấn mạnh là các thành quả có được là nhờ nỗ lực và quyết tâm của toàn thể nhân dân Việt Nam. Đừng đi tìm nguồn gốc ở đâu xa. Các thành quả đó cũng có đồng bào tại đây đóng góp mà nên. Muốn truy tìm sức mạnh yểm trợ ở đâu mà ra, xin cứ hỏi con tim Việt Nam.

Chúng ta đang bước qua một giai đoạn đấu tranh mới. Theo đà bành trướng ảnh hưởng của kháng chiến Việt Nam, rất nhiều anh em trong hàng ngũ quân cán chính của bạo quyền đã trở về với nhân dân với đầy đủ khí giới, đạn dược. Từ những tin tức do đài Việt Nam Kháng Chiến loan truyền, các tổ chức kháng chiến đã đến với nhau ngày một đông hơn. Chúng ta đã có những khả năng chiến đấu tương đối rộng rãi và đa diện hơn....

Cuộc kháng chiến của toàn dân ta đã gặt hái được rất nhiều thành quả và tiến bước vô cùng khích lệ. Nhưng chúng ta cũng phải nhìn thật rõ là đường kháng chiến vẫn còn vô cùng gian nan mà chỉ có quyết tâm và kiên nhẫn mới đưa dân tộc ta tới chiến thắng.

Lực Lượng Võ Trang Kháng Chiến do tôi được ủy nhiệm chỉ huy sẽ quyết tâm đặt quyền lợi của Tổ Quốc và Dân Tộc lên trên hết, quyết tâm chiến đấu vì Tổ Quốc và Dân Tộc, để xứng đáng là những đứa con của dân tộc Việt oai hùng...".

"Phải tôi đã được nghe
trên một làn sóng ngắn
Tiếng gió tung cờ chính nghĩa
Tiếng núi chuyển
Tiếng sông gầm
Tiếng mưa chan hòa nước mắt trong
của dân tôi đã khóc vì mừng

Phải tôi đã được nghe
Đã đập rộn nhịp tim
Chảy rần huyết mạch
Vì sau bao nhiêu đợi chờ hy vọng
Tôi đã được nghe rõ hôm nay
Tiếng nói đài kháng chiến
Một chặng đầu tất yếu
của cuộc giải phóng Việt Nam

Phải tôi đã được nghe
Tiếng chim hót chào người di hành buổi sáng
Tiếng vốc nước suối lúc tạm nghỉ chân
Tiếng rẽ lá cây rừng
Tiếng cám ơn chia nhau nửa vắt cơm
Phải làn sóng phát thanh
đã làm gần nhau từng đơn vị
Tuy khác những tuyến đầu
nhưng chung kẻ thù tồi tệ

Phải tôi đã được nghe
Tiếng nấc vợ mong chồng
đang bị cầm tù trong trại tập trung
Đem sức héo mòn ra lao tác
Làm con vật kéo cày cho đảng
rồi gục ngã trong tuyệt vọng âm thầm

Phải tôi đã được nghe
những tiếng bứt xiềng
những tiếng phá gông
của những người tù chung bản án
tội làm người chứng lương tâm

Phải tôi đã được nghe
tiếng những chim lồng xổ cánh
mặc đạn thù vây bủa đường bay
Hẹn nhau một trận tuyến này
Súng gươm ta lại sát vai diệt thù

Phải tôi đã được nghe
lẫn trong làn sóng phát thanh
là giọt nước mắt từ chiếc áo mưa ướt sũng
là hơi thở gấp của chiến hữu giao liên
chạy nối những mảnh rừng
trao một mẩu tin
rồi biến mất sau thân tràm xanh lá

Phải tôi đã được nghe
Nhịp tim người kháng chiến
trong tiếng lửa reo lách tách
tiếng tay xoa vào nhau lấy ấm
Có tiếng hát hòa tiếng đàn thùng
cất lên tự ước mơ chung
Giải phóng non sông gấm vóc

Phải tôi đã được nghe
tiếng trẻ gào trên mảng thuyền trôi giạt
giữa biển đêm không một ánh sao
Em rời nơi cắt rốn chôn nhau
để lạc về đâu
khi nhân loại mang tấm lòng chật hẹp

Phải tôi đã được nghe
tiếng những người tù nông trường khắc khoải
về thân phận nô lệ mới hôm nay
trân đất Siberia
buốt giá lưu đày
nơi cái chết chính là giải thoát

Phải tôi đã được nghe
tiếng khóc người mẹ lính ngụy
buổi đi hốt cốt con
đã không tìm thấy mộ
trong khi trời thì tầm tã mưa rơi
bùn nước lấm cùng người run rẩy

Phải tôi đã được nghe
Tiếng cô phụ ru con
trong đêm hè nóng nực
khi muỗi bay vo ve đậu thành màn
À ơi
Con ơi con ngủ cho ngoan
Cha con kháng chiến còn đang dãi dầu

Phải tôi đã được nghe
Tiếng sóng nước đẩy thuyền đi
những thuyền chở đầy gạo muối
mặc cho kinh rạch xa xôi
vẫn gắng công chèo tới
cho trọn vẹn tấm lòng dân tiếp tế quân

Phải tôi đã được nghe
Tiếng cồng Tây Nguyên gióng dội
từ miền cao lan xuống đồng bằng
Nói với nhau lời hẹn núi sông
Kiên tâm chờ ngày quật khởi

Phải tôi đã được nghe
Những tiếng tù và thổi
báo nhau trận địa sẵn sàng
Đánh kẻ thù ta chém vào lưng
Chặt đôi mình rắn
Đập nát đầu đuôi cộng sản

Phải tôi đã được nghe
Tiếng nói đài kháng chiến
Đã thấy mình đang nóng ruột
muốn đem thân nhập cuộc đấu tranh
cho một ngày tổng khởi nghĩa toàn dân"

(Bắc Phong - Phải Tôi Đã Được Nghe)

---- oOo ----

Thanh Niên Hải Ngoại & Công Cuộc Đấu Tranh Giải Phóng Tổ Quốc

(Trích đoạn từ bài nói chuyện của chiến hữu Vụ Trưởng Vụ Tuyên Vận Nguyễn Đồng Sơn
trước anh chị em sinh viên University of Southern California, 8-1-1985)

....

Trước khi nêu câu hỏi "Hải ngoại có thể làm được gì cho công cuộc đấu tranh của dân tộc", có lẽ chúng ta nên xác nhận lại một vài điều mà đồng bào và anh chị em kháng chiến quân ở trong nước đều đã thấu hiểu vì phải sống và đấu tranh một cách thường trực và liên tục từ nhiều năm qua. Những điều đó là:

1. Công cuộc đấu tranh giải phóng Tổ Quốc Việt Nam là nhiệm vụ của người Việt Nam.

Trước đây, chúng ta đã để mất vai trò chủ động khi phải giải quyết một vấn đề của dân tộc. Ngày hôm nay, chúng ta nên rút tỉa bài học mà hiểu ra rằng: Chúng ta quyết tâm "lấy sức mình làm chính". Lấy sức mình là chính chứ không phải sức Mỹ là chính. Vì vậy, phản ứng của chúng ta phải là "ta làm được gì cho kháng chiến Việt Nam", chứ không phải là "quốc tế đã công nhận hay giúp đỡ gì cho Kháng Chiến Việt Nam chưa". Người ngoại quốc, không riêng gì người Mỹ ở nơi đây, chắc chắn sẽ rất ngạc nhiên khi thấy lâu lâu lại có người Việt Nam kêu đòi họ giúp ta lấy lại tự do cho ta. Việc ta, ta phải lo lấy trước khi nghĩ đến người ngoài. Chúng ta ở hải ngoại sẽ rất khó kêu gọi thế giới trả lại tự do cho người Việt bỏ chạy ra ngoài để tìm tự do ở nước ngoài. Vì vậy, không nên ngạc nhiên khi thấy người ngoại quốc ngạc nhiên vì những trông chờ quốc tế của một số người Việt ta.

2. Công cuộc đấu tranh giải phóng Tổ Quốc Việt Nam là nhiệm vụ của tất cả mọi người Việt Nam.

Điều thứ hai cần ghi nhận ở đây chính là tinh thần "toàn dân kháng chiến", một trong những quan niệm chiến lược của Mặt Trận. Chúng ta không đi vào sai lầm đã phạm phải khi xưa là ủy nhiệm cho quân đội của chúng ta một mình vừa đánh lại bộ máy xâm lược của Việt cộng từ miền Bắc tràn xuống, vừa chống cả khối cộng sản quốc tế yểm trợ cho bọn Việt cộng, lại vừa chống lại cả những xuyên tạc và phá hoại của những phần tử thân cộng hay ngụy hòa đã từng lung lạc dư luận thế giới và cô lập miền Nam tự do của chúng ta. Việc giải phóng đất nước là bổn phận của toàn dân, không phải là việc riêng của những người hoạt động trong Mặt Trận, hay của đồng bào và các anh chị em kháng chiến quân trong nước. Nếu vẫn nghĩ mình còn huyết thống Việt Nam và còn nhiệm vụ đối với Tổ Quốc, chúng ta phải chia xẻ trách nhiệm Giải Phóng Tổ Quốc.

3. Công cuộc đấu tranh giải phóng Tổ Quốc Việt Nam là một cuộc đấu tranh toàn diện

Điều thứ ba tôi xin được nhắc lại ở đây chính là ý nghĩa "toàn diện đấu tranh" của công cuộc kháng chiến. Đi từ đặc điểm phi quy ước của đấu tranh giải phóng và với đường lối "lấy sức mạnh dân tộc làm căn bản", ta thấy ngay là từ tư tưởng, ta phải có một quan niệm đấu tranh phóng khoáng và sáng tạo. Tức là đừng tự làm mình nghèo yếu đi khi tự hạn chế những phương tiện hay lề lối đấu tranh. Làm tất cả những gì có thể làm được để bạo quyền bị suy yếu đi, hoặc để tăng cường sức mạnh đấu tranh cho dân tộc, đều là những hành động kháng chiến. Nếu chỉ nghĩ đến việc cầm súng mới là đấu tranh, ta sẽ cần bao nhiêu khẩu súng cho sáu mươi triệu đồng bào ta ở trong nước? Ngược lại, nếu chỉ nghĩ đến việc làm tan rã đàn áp, làm suy sụp tinh thần cán binh Việt cộng, hay giúp đỡ cho lực lượng võ trang kháng chiến có điều kiện tiêu diệt bạo lực quân sự của kẻ thù... đều là việc làm thiết thực, thì liệu bạo quyền sẽ tồn tại được bao lâu trước đạo quân kháng chiến có sáu mươi triệu kháng chiến quân không đồng phục không súng đạn nhưng tràn đầy tinh thần sáng tạo và triệt để đó?

3. Công cuộc đấu tranh giải phóng Tổ Quốc Việt Nam là một cuộc "trường kỳ kháng chiến"

Điều thứ tư chúng ta cần ghi nhớ là chúng ta sẽ phải đấu tranh lâu dài với nhiều gian khổ. Ở đây, một năm đối với chúng ta là một khóa học, là một kỳ nghỉ hè, hay một lần im lặng tưởng niệm ngày 30 tháng 4. Ở trong nước, một năm là mười hai tháng bị đọa đày. Là mấy đợt kiểm kê, mấy kỳ đi nghĩa vụ lao động, nghĩa vụ thủy lợi, dăm ba lần trốn tránh nghĩa vụ quân sự... Một năm ở trong nước có lẽ đi qua chậm hơn một năm ở ngoài này. Đối với anh chị em kháng chiến quân, một năm là mấy đợt mưa rừng, mấy cơn sốt rét, bao nhiêu người gục ngã... Nhưng, một năm cũng có thể là bao nhiêu khóa học tập về đấu tranh giải phóng, bao nhiêu lần được "xuống núi" hoạt động trong đồng bào, bao nhiêu cơ sở kháng chiến đã phát triển được...

Trong điều kiện vô cùng khổ cực của nước ta, không ai mong muốn công cuộc đấu tranh này mau chóng thành công hơn là đồng bào ta ở trong nước. Nhưng, mong muốn như vậy là một chuyện, biết chắc là mình không thể nôn nóng vọng động là một chuyện khác. Tinh thần quyết liệt trong đấu tranh giải phóng là tinh thần kiên nhẫn trong những việc làm trước mặt. Đây là một đức tính truyền thống của người Việt Nam chúng ta, đức tính kiên trì. Ở hải ngoại, chúng ta thấy có tin vui về kháng chiến thì mừng, lâu lâu không thấy tin tức gì thì lại hỏi nhau "bộ dạo này không có kháng chiến nữa sao?". Đồng bào và anh chị em kháng chiến quân trong nước đấu tranh để giải phóng Tổ Quốc, không để lâu lâu cung cấp tin tức cho hải ngoại lên tinh thần. Nếu ở ngoài này chúng ta cũng có tinh thần trường kỳ kháng chiến, có lẽ chúng ta sẽ bớt nôn nóng đợi chờ kết quả để lên tinh thần, mà sẽ cụ thể nhìn ngay trước mắt xem là mình có thể làm gì để góp sức cùng dân tộc trong nước. Cách hay nhất để đốt ngắn giai đoạn và mau chóng thành công vẫn là đứng lên tiếp tay kháng chiến trong tinh thần kiên trì và bền bỉ.

Tiếp tay kháng chiến như thế nào? Câu hỏi này đưa chúng ta về vai trò của hải ngoại và đặc biệt là sự tham gia của thanh niên sinh viên hải ngoại vào công cuộc đấu tranh giải phóng.

….

Ở hải ngoại, khai thác những ưu thế đặc biệt của hải ngoại, ta quan niệm vai trò của hải ngoại là tham gia vào việc đấu tranh vận dụng; là kết hợp sức mạnh của những quốc gia dân chủ trên thế giới để hỗ trợ sức đấu tranh của đồng bào trong nước.

Cụ thể ra, mỗi người tỵ nạn ở hải ngoại đều có thể tham gia kháng chiến bằng những phương tiện và điều kiện của mình. Đóng góp cho nỗ lực tiếp vận kháng chiến là một việc ở trong tầm tay của mọi người. Nếu mình nghĩ đấu tranh là một nhiệm vụ chung, việc chung góp tiền bạc để tiếp vận kháng chiến cũng phải được coi là một bổn phận, một việc làm tự nhiên của mọi người chứ không phải là hành động ban ơn cho Tổ Quốc, thấy vui thì làm, không thì thôi. Ở trong nước, đồng bào ta làm việc tiếp vận một cách lặng lẽ, và bắt buộc phải lặng lẽ để bảo toàn lấy mạng sống của mình và của anh chị em kháng chiến quân. Và khi giúp đỡ kháng chiến quân làm nhiệm vụ, đồng bào cũng không chờ đợi kháng chiến quân phải có vài hành động biểu diễn ngoạn mục để lên tinh thần. Nhưng, điều kiện của đồng bào là điều kiện khốn cùng, bị đàn áp và kiểm soát, nên việc tiếp vận không được dồi dào và tự do như ở hải ngoại. Ưu thế của hải ngoại là có thể cung cấp cho dân ta những phẩm vật không có được ở trong nước. Thuốc men là một điển hình.

Nhưng, tham gia kháng chiến ở hải ngoại không chỉ là chung góp tiền bạc. Chúng ta có thể làm hơn thế. Đã có nhiều người làm hơn thế, tức là gia nhập Mặt Trận và trở về nước chiến đấu. Không về nước chiến đấu, chúng ta vẫn có thể tham gia tại hải ngoại; làm chính nghĩa dân tộc được sáng tỏ; gây khó khăn cho bạo quyền ở những nơi chúng đang có kế hoạch kinh tài hay tuyên truyền phá hoại; giải thích nhu cầu đấu tranh của dân tộc Việt Nam cho mọi người chung quanh cùng hiểu; hay nuôi dưỡng tinh thần đấu tranh trong gia đình, với con em của chính mình chẳng hạn... đều là những việc có lợi cho kháng chiến Việt Nam.

Nếu chúng ta quan tâm đến vấn đề sống còn của dân tộc, đến tương lai của đất nước, chúng ta nên quan tâm từ những việc nhỏ nhặt nhất, gần gũi và thiết thực nhất ở chung quanh ta. Mua một tờ báo Kháng Chiến, nêu cao những tấm gương sáng về kháng chiến, dẹp bỏ những xuyên tạc vô ý thức có hại cho kháng chiến, trực tiếp viết thư can thiệp với những dư luận báo chí ngoại quốc để nói lên nguyện vọng của chúng ta và bác bỏ những luận điệu tuyên truyền của Việt cộng, tổ chức những buổi nói chuyện trong học đường, trong xí nghiệp để các bạn ngoại quốc của chúng ta hiểu rõ hơn vì sao người Việt Nam đã phải ra đi và người Việt Nam đang chiến đấu như thế nào, v.v... là những việc làm không khó nhọc, không nguy hiểm, mà lại là những việc đồng bào trong nước không làm được. Ở hải ngoại ta có tự do thì dùng quyền tự do quý báu này để tranh đấu cho đồng bào ta đang bị bịt miệng ở bên nhà. Khi có thể phát huy quyền tự do đó một cách thiết thực và đơn giản như những việc vừa liệt kê, chúng ta đã quen dần với ý niệm "Đấu tranh là lẽ sống, nhu cầu đấu tranh cũng tự nhiên như hơi thở của chúng ta". Nếu toàn thể người Việt Nam đều có tinh thần đấu tranh tự nhiên mà triệt để như vậy, người ngoại quốc sẽ phải kính phục chúng ta là một dân tộc tự trọng, và dần dà rồi cũng phải tìm hiểu vì sao một sắc dân có nhiều người thành công trong cuộc sống mới như vậy cũng là một sắc dân luôn luôn kiên trì với mục tiêu đấu tranh giải phóng. Chúng ta không thể để thế giới nhìn người Việt Nam như một đám người bại trận. Xã hội này cũng có đặc điểm là tôn vinh những người dám đấu tranh, tôn vinh sự can đảm. Trong việc đấu tranh, chúng ta chỉ có thể làm người ngoại quốc thêm kính nể vì sự can đảm anh hùng của chúng ta mà thôi.

…..

Đi vào một thành phần thu hẹp hơn trong cộng đồng tỵ nạn, ta thử nghĩ xem thanh niên và sinh viên Việt Nam có thể làm gì cho công cuộc đấu tranh giải phóng?

Trước hết, có lẽ chúng ta cũng cần minh định một số điểm liên quan đến thái độ của một số người đối với thanh niên và sinh viên.

Từ nhiều thập niên qua, chúng ta đã từng nghe nói mãi rằng "thanh niên là rường cột của nước nhà". Điều này mới nghe thấy đúng. Và cũng thấy sướng, nếu ta ở vào lứa tuổi có thể được gọi là thanh niên. Thực tế ra sao, và những người đã từng ở vào lứa tuổi thanh niên cách đây hai chục năm chẳng hạn, nghĩ sao về điều này, hay cũng chỉ nhìn xuống thế hệ thiếu niên khi đó, nay đã thành thanh niên, mà nhắc lại câu nói đó? Chúng ta đã mất hết cả rồi và không lẽ lại tiếp tục mỗi thế hệ một lần nhắc nhở những thế hệ thanh niên về cái vinh quang sẽ là "rường cột nước nhà". Trước hết, ở hải ngoại, ta có thể tự hỏi một câu rất sòng phẳng, rất minh bạch và rất chân thật: "Thanh niên là rường cột của nước nào?". Câu hỏi có thể gây xúc động cho chúng ta. Nhưng, nếu không suy nghĩ và tham gia đấu tranh cùng toàn dân khi nước nhà nguy biến, chúng ta có điều kiện để trở thành rường cột nước Nam hay không, cho dù là ta có khả năng đó?

Điều thứ hai cần phải nói là công cuộc đấu tranh này là của toàn dân. Tất cả những ai biết đi đứng suy nghĩ đều có điều kiện tham gia. Trong hoàn cảnh hiện nay, các kháng chiến quân trong nước phần lớn là những nam nữ thanh thiếu niên nhưng toàn thể đồng bào ta đều có mặt và có bổn phận có mặt trong cuộc đấu tranh này. Vì vậy, các bậc phụ lão tham gia kháng chiến theo điều kiện của các bậc phụ lão, thanh thiếu niên và tráng niên tham gia theo điều kiện của thanh thiếu niên, của tráng niên. Và, ở trong nước, không bao giờ lại có câu nói nghịch nhĩ là "thanh niên hãy lo học hành đi để chúng tôi lo kháng chiến, bao giờ kháng chiến thành công thì đến lượt thanh niên sinh viên, lúc đó đã trưởng thành tất sẽ lo việc xây dựng".

Ở hải ngoại câu nói này đã được nghe đâu đó. Người ta muốn cho thanh niên nghĩ rằng việc đấu tranh là việc làm chính trị. Và, từ những kinh nghiệm của chính những người đưa ra quan niệm này, họ đưa ra thêm quan niệm nối tiếp, rằng chính trị là thủ đoạn dơ bẩn, thiếu đạo đức. Để kết luận là thanh niên đừng làm chính trị. Thanh niên có thể tự hỏi: Nếu không làm chính trị, tức là không đấu tranh, nhưng vẫn tha thiết đến Tổ Quốc thì thanh niên phải làm gì? Lòng khát khao đóng góp đó đã được những người này giải đáp bằng một lối thoát rất êm ái, đầy tiện lợi: Đó là cứ lo học đi, sau này sẽ xây dựng đất nước. Vì sao họ muốn thanh niên sinh viên tản sức đấu tranh bằng lời khuyên nhủ đó?

Ngày xưa, chúng ta đã sai lầm khi nghĩ là hậu phương lo học hành, để anh em trong quân đội lo chống giặc ngoài tiền tuyến. Hậu quả của lập trường ủy nhiệm này đã đưa chúng ta đến tình trạng bi thảm của dân tộc. Chúng ta sẽ không đi vào những sai lầm cũ nữa. Làm chính trị là nghề nghiệp của chính trị gia, còn đấu tranh giải phóng Tổ Quốc là nhiệm vụ của mọi người, trong đó có cả thanh niên sinh viên. Nếu cần, có lẽ chúng ta cứ nhắc lại tên tuổi một số anh hùng dân tộc, chúng ta cũng thấy tiền nhân đã làm việc cứu nước ở vào tuổi thanh niên, hầu hết đều như vậy.

Đi vào việc xây dựng đất nước sau này, chúng ta làm gì không hiểu được là trong việc xây dựng, chúng ta cần kiến thức kỹ thuật. Nhưng, quan trọng hơn, chúng ta cũng cần ý thức và tinh thần dân tộc để biết uốn nắn những kiến thức kỹ thuật thành những giải pháp thực tiễn cho xã hội ta.... Khi đã thấy tầm quan trọng của ý thức dân tộc, của sự sống gần gũi, gắn bó với dân tộc, chúng ta thấy ngay một điều là trong thế hệ này, dân tộc ta đang tranh đấu để giành lại tự do. Chúng ta khó đứng ở ngoài cuộc tranh đấu để sau đó trở về xây dựng với đầy ắp ý thức dân tộc được....

Ngoài việc tham gia đấu tranh như mọi người Việt Nam khác, với những đặc tính ưu thế về môi trường sinh hoạt, về đối tượng tiếp xúc, về khả năng và vị trí trong cộng đồng tỵ nạn v.v... thanh niên sinh viên còn có thể làm thêm được gì cho công cuộc đấu tranh này? Ta hãy đi từ cái tương đối dễ đến cái tương đối khó khăn hơn.

Dễ nhất là đọc báo. Để biết, và để hiểu tường tận về vấn đề Việt Nam, vì chúng ta là những chứng nhân trực tiếp, và có thể giúp cho đồng bào ta, lên tiếng giải thích tường tận cho những người bạn ngoại quốc muốn tìm hiểu về Việt Nam, hay về Kháng Chiến Việt Nam....

Tiến xa hơn một chút, chúng ta có thể vận động anh em bạn học trong trường, và cả các giáo sư giảng dạy, cùng tham gia đấu tranh với chúng ta: chung góp tiền bạc hay kiến thức của họ cho công cuộc đấu tranh, hoặc lên tiếng phủ nhận những luận điệu xuyên tạc của các phần tử ngụy hòa trong đại học để làm sáng tỏ chính nghĩa của dân tộc Việt Nam....

Kế nữa, thanh niên sinh viên có thể tiến lên một bước là tham gia đấu tranh như một đoàn viên Mặt Trận để góp phần giải quyết những vấn đề thiết thực của đấu tranh giải phóng ở trong nước. Cộng tác với đài Việt Nam Kháng Chiến là một thí dụ thiết thực....

…..

Chúng ta thấy kháng chiến không chỉ là thuốc súng và tiếng nổ. Kháng chiến còn là rất nhiều công việc bình thường ai cũng có thể làm được. Cái khó là làm sao nhìn ra những việc đó. Điều đó vẫn chưa khó. Cái khó là làm sao nhìn ra việc đó rồi lặng lẽ quyết định tham dự. Và khó hơn cả là tham dự trong tinh thần trường kỳ, cho đến ngày thành công.

Những cái khó này, có lẽ không một học đường nào có thể giúp đỡ cho chúng ta được. Đây là việc mà chính chúng ta phải giải quyết lấy, tùy theo tinh thần của mỗi người. Hồn thiêng sông núi là cái gì đó rất linh thiêng, được Tổ Quốc phân chia đồng đều cho mọi người Việt Nam chúng ta. Đón nhận hay không là quyền tự do của mỗi người. Dân tộc Việt Nam chúng ta đã gặp không biết bao nhiêu cảnh gian truân khốn cùng trong lịch sử, và lần nào cũng vùng lên để tồn tại, điều đó có nghĩa là tiền nhân của chúng ta đã từ chối quyền tự do buông xuôi đề đất nước trở thành một châu quận của người Tàu.

Đến thế hệ của chúng ta, các anh chị em đã có tự do ở nơi đây, ta sẽ làm gì với quyền tự do đã có này?

Câu hỏi, xin được dành cho mỗi người.

Câu trả lời, xin dành cho Hồn Thiêng Sông Núi.

"Này lại cuối tháng tư
Trời bỗng xanh ngăn ngắt
Để mình nhớ người yêu
Như quãng đời đã mất
Để mình và Nữu Ước
Bỗng thấy rất trẻ thơ
Thèm cái thèm vô tư
Dầm thân trong cỏ dại
Hát cho tròn môi lại
Như hôn Thần Tự Do

Tháng tư phai màu đen
Rồi loãng dần sắc xám
Tháng tư xanh đó em
Hy vọng và tin tưởng
Bạn chúng ta trở về
Vạch đường mòn xẻ núi
Vạt rừng già ngủ mê
Rẽ đại dương mở lối
Bạn chúng ta đã về
Mang nhịp tim hải ngoại
Trao tặng anh em nhà
Trong vòng ôm xiết chặt
Có nước mắt đậm đà
Trong nghẹn ngào tiếng nấc
Có tình nghĩa thăng hoa
Bạn chúng ta đã về
Uống từng câu vọng cổ
Khi tiếng ca xuống xề
Mình nổi gai thương nhớ
Bạn chúng ta đã về
Nên tháng tư xanh ngắt
Và giấc mơ về nước
Bỗng trải lụa chiêm bao

Ngồi trong đêm Nữu Ước
Mà đi vào chiêm bao
Không còn màu cờ đỏ
Mắt em lại trong xanh
Không còn đêm thức trắng
Tóc em lại óng đen
Uyển chuyển dáng em đi
Vuốt ve đường phố cũ
Những nín câm ấp ủ
Bật lên những tiếng cười
Năm chục triệu con người
Án khổ sai xé bỏ
Hồn em ngàn cửa sổ
Thôi treo nhánh xương rồng
Lũ tà ma đâu còn
Tình cũng thôi gai góc
Ta thả rồi tiếng khóc
Vỡ vụn dưới bước chân
Ta bóp nát thở than
Trong đôi tay biết múa
Thôi từ nay giấc ngủ
Hết đứt quãng rã rời
Thôi chập chờn ma trơi
Những bàng hoàng lo sợ

Chỉ còn ta chăm chỉ
Xây cất lại cuộc đời
Rung những hạt mồ hôi
Thành chuỗi cười lảnh lót
Cho câu hò tiếng hát
Gọi mùa lúa vàng ươm
Cho mẩu truyện tiếu lâm
Giúp thơm hoa chín trái
Tiếng dô ta thoải mái
Gọi đô thị mọc lên
Dìu nhau trong công viên
Hồn ta trăng ướp ngọc
Ngọt ngào như ủ mật
Dịu dàng như Việt Nam

Ta ru:
Bống bống bang bang
Cái ngủ mày ngủ cho ngoan
Trời xanh kia bóng cờ vàng yêu thương
Ví dù khổ nhọc trăm ngàn
Ầu ơ kìa bóng cờ vàng tự do"
(Bài Hát Tháng Tư – thơ Hoàng Anh Tuấn - nhạc Phạm Duy)

---- oOo ----

Những Định Đề Của Đấu Tranh Giải Phóng

(Chiến hữu Nguyễn Kỳ Đức đúc kết trong bài Ý Thức Giải Phóng)

1. Chúng ta không tiến hành chiến tranh mà đang tiến hành đấu tranh giải phóng.

2. Đấu tranh giải phóng mang ý nghĩa dân tộc vì được tiến hành bởi toàn dân chống lại một thiểu số thống trị.

3. Khi đã đi vào đấu tranh giải phóng, tức là ta đã mất chính quyền và quân lực mà chỉ còn nhân dân, phải quan niệm thế đấu tranh từ nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

4. Khi đã tiến vào đấu tranh giải phóng, ta bắt buộc phải phá bỏ mọi quy ước của chiến tranh cổ điển, và phải gột bỏ ngay trong ý thức những thói quen của giải pháp quân sự, sản phẩm của quy uớc chiến tranh.

5. Trong đấu tranh giải phóng phi quy ước, không thể nghĩ đến chiến trường hay mặt trận giao tranh như một địa điểm nhất định, mà phải nghĩ đến chiến khu, kháng chiến quân và những ổ kháng chiến, những gia đình kháng chiến và những biện pháp kháng chiến phi quân sự.

6. Trên trận tuyến đấu tranh giải phóng, tương quan lực lượng luôn luôn khởi sự thất lợi về phía lực lượng nhân dân, nhưng lực lượng chính trị do sức mạnh của chính nghĩa và sức hậu thuẫn của toàn dân sẽ tạo ra sức mạnh mới lấn át sức mạnh quân sự của bọn thống trị.

7. Đã đứng trên tư thế đấu tranh giải phóng chống lại kẻ thù thống trị, ta biết là ta sẽ không thỏa hiệp và kẻ thù cũng sẽ không thỏa hiệp. Giải pháp sau cùng sẽ hoặc là lực lượng đấu tranh bị tiêu diệt để lại xuất hiện sau đó từ nhân dân, hoặc là bọn thống trị phải bị lật đổ.

8. Trên cái thế một mất một còn đó, chúng ta chắc chắn sẽ phải thành công nếu chấp nhận đấu tranh bền bỉ, trường kỳ, cùng với toàn dân.

9. Trong đấu tranh giải phóng, sức mạnh của lực lượng giải phóng là chính nghĩa dân tộc, tất cả mọi chiến lược chính trị, ngoại giao đều phải phù hợp với chính nghĩa. Mọi kết hợp quốc tế không có chính nghĩa tất có thể tạo lực lượng chiến đấu trong ngắn hạn mà mất hậu thuẫn quần chúng trong dài hạn.

"Dẫu chưa một lần lội qua dòng sông
Em vẫn nói về con nước ròng
Và những gian nan dọc đường tải đạn
Mưa gió trở mùa sáng nắng, chiều giông
Dẫu chưa biết được những vùng anh qua
Ẩm ướt mưa rừng, đất cằn, sỏi đá
Chiến khu muỗi mòng, rừng thiêng, nước lạ
Thương anh như thương bóng dáng quê nhà
Thương anh như thương dòng sông nhà ngoại
Mấy bụi, mấy bờ, đám sắn, vồng khoai
Thương đám lục bình chở che Kháng Chiến
Thương chiếc xuồng con tải gạo hôm mai
Như ngọn rau rừng đắng, ngọt, yêu, thương
Trên đoạn đường về trải thịt phơi xương
Thương anh kháng chiến chiều mưa tháng Chạp
Ôm súng mơ ngày giải phóng quê hương
Như những dây trầu xanh mướt sáng mai
Thời gian dẫu hoài mắng một, mưa hai
Quê hương thiết tha đang lời kêu gọi
Anh quay trở về nối bước đoàn trai
Ta có một đời để đợi chờ nhau
Hạnh phúc không là những cơn mưa mau
Anh quay trở về đáp lời sông núi
Tình em mãi xanh như những đọt trầu"

(Như Đọt Trầu Xanh – thơ Hương Giang - nhạc Châu Đình An)

---- oOo ----

Những Định Đề Của Ý Thức Giải Phóng & Canh Tân

(Chiến hữu Nguyễn Kỳ Đức đúc kết trong bài Ý Thức Giải Phóng)

1. Chúng ta giải phóng đất nước để xây dựng một xã hội mới và để sống thanh bình trong xã hội đó.

2. Trong nỗ lực giải phóng, chúng ta luôn luôn ý thức được nhu cầu xây dựng sau giải phóng. Vấn đề canh tân phải được quan niệm một cách triệt để, nghĩa là từ con người.

3. Vì nhu cầu giải phóng và canh tân, phải triệt để loại bỏ tất cả những gì tiêu cực và xấu xa trong xã hội, trong chúng ta. Có giải phóng cá nhân mình khỏi những tính xấu, chúng ta mới vận dụng được toàn dân vào đấu tranh và mới xây dựng được một tầng lớp người mới cho tương lai.

4. Ý thức giải phóng, vì vậy, là một ý thức cách mạng. Phải triệt để xóa bỏ những gì xấu vì những cái xấu đó chính là đồng minh khách quan của kẻ thù thống trị.

5. Ý thức giải phóng phải được quảng bá trong quần chúng nhân dân để trở thành sức mạnh của đấu tranh. Vai trò của tư tưởng, của ngòi bút, của tư duy và của truyền thông là vai trò then chốt. Phải tạo cơ hội cho trí thức được gần với quần chúng bình dân để có ý thức giải phóng chính xác hơn, khả thi hơn, và để đưa ý thức giải phóng đó thành sức mạnh đấu tranh.

6. Ý thức giải phóng và canh tân đi đôi cùng nhau phải được bắt đầu bằng ý thức xây dựng lấy lực lượng giải phóng. Lực lượng đấu tranh phải có khả năng tự túc ngay từ những ngày đầu kháng chiến.

7. Ý thức giải phóng phải được nuôi dưỡng liên tục và phát triển thường xuyên thành sức mạnh đa diện. Ý thức giải phóng khi đã trở thành lý tưởng của quần chúng tất phải trở thành nguồn sinh lực đào tạo ra ra hàng ngũ cán bộ đấu tranh. Phát triển ý thức giải phóng là phát triển sức mạnh tinh thần trong quần chúng để trở thành quần chúng kháng chiến. Biến kháng chiến thành lẽ sống của mọi người.

8. Ý thức giải phóng đất nước được gắn liền với ý thức canh tân đất nước ngay từ trong giai đoạn đấu tranh và ngay từ hàng ngũ cán bộ đấu tranh. Nhu cầu huấn luyện và học tập cho cán bộ đấu tranh là một phản ảnh rõ ràng nhất của niềm tự tin và sự sáng suốt của ý thức giải phóng.

"Đường kháng chiến đi qua,
Bỗng lạ lùng!
Thấy mình qua tất cả,
Những gian lao vất vả,
Từng người, từng người tất cả bước mau.
Và đất nước theo sau,
Đậm lại từng câu, từng câu lịch sử.

Máu chảy từng dòng theo từng giòng chữ,
Máu của nhiều năm đọng ứ tim sông,
Máu của nhiều năm đọng hồng gan núi.
Hôm nay đi, mọi người mọi tuổi,
Như ngàn ngàn con nước nhập vào sông,
(Như ngàn ngàn con rồng tuôn ra biển)
Bước chân rầm rập bưng biền,
Lan ra khắp ba miền đất nước.
Ngàn thương yêu trải dài từ thuở trước,
Triệu bàn tay ôm đất nước dâng lên.
Kìa, xa xa tiếng thét vang rền,
Ngẩng đầu lên, tràn theo đường Kháng Chiến!

Ta theo triệu triệu người cùng tiến,
Cất nỗi niềm riêng, rong ruỗi bước đường.
Vươn cao tay theo tầm vóc quê hương,
Ngày nắng, đêm sương,
Lừng lững giữa chiến trường,
Cây lá theo đường cũng không biết chùn chân.
Đạp lên bước tiền nhân,
Đem tuổi thanh xuân mài gươm cứu nước.

Đường Kháng Chiến, có người đi phía trước,
Mỗi bước ta đi là một bước tương lai,
(Ta, tuổi trẻ, phải dài như đất nước,
Đất nước phất cờ, Tuổi trẻ theo sau)
Đường Kháng Chiến đi mau,
Bỗng giật mình, người theo sau rầm rập!
Những con người tình cờ bắt gặp,
Hối hả bước đi cho kịp đấu tranh.
Không tiếc tuổi xanh,
Chỉ tiếc thiếu anh trên đường Kháng Chiến"

(Võ Hoàng - Đường Kháng Chiến Đi Qua)